1.1.14

Hoa lan

Lúc sáu tuổi, cùng lên núi đào hoa lan với ông ngoại. Mang theo sọt tre, cuốc ngắn, bình nước, đi qua đường nhỏ lát đá cuội trong làng, đi qua luống cày bằng máy ven khe nước lớn chảy róc rách. Một chiếc cầu đá phiến nối hai bờ khe nước. Cầu không có tay vịn không có mái, bắc rất cao, trên rìa có một cây bách lớn, người trong làng thường treo mèo chết lên. Có lúc trên cành cây treo hai ba con, dần dần hong khô.

Sau khi qua cầu, là hai con đường nhỏ rẽ nhánh. Một đường thông về phía đông, qua ngôi miếu thổ địa cổ xưa, đi vào sâu trong núi cao mênh mang. Một đường khác thông về phía tây, ở đó là vạt lớn đồng ruộng canh tác, trồng đầy hoa màu tươi tốt. Hôm ấy đi men theo đường núi phía đông.

Trong miếu thổ địa có hai pho tượng đá nhỏ, trên bàn gỗ cúng trái cây và hoa dại. Tro nhang tích lũy rất dày, đủ thấy thường có người đến dâng hương. Miếu thổ địa nhỏ tuy sơ sài, nhưng lại tỏ ra tĩnh mịch uy nghi. Tầm nhìn rộng rãi, gió núi hiu hiu. Mùa xuân, trong rừng cây xanh lục khắp nơi đều là hoa đỗ quyên màu đỏ. Chỉ cảm thấy vị trí này đặc biệt tốt, nó khiến mọi thứ xung quanh tỏ ra ngay ngắn rõ ràng, thịnh vượng có thừa.

Đường núi sau miếu thổ địa cao dốc không rõ, thông đến núi lớn trùng trùng điệp điệp. Trên núi ngoài hai chúng tôi, cũng không có ai khác. Ông ngoại đeo sọt, dọc đường chẳng nói một câu. Quá nửa đời ông trao cho ruộng đất và lao động, là một người đàn ông trầm lặng. Tôi gắng hết sức duy trì thể lực, để có thể theo kịp bước chân của ông, chỉ cảm thấy con đường núi này dài dằng dặc. Lúc đó đã hoàn toàn rời xa làng xóm và đồng nội.

Núi cao rừng rậm sâu thẳm vắng vẻ, đường nhỏ trong núi xen lẫn cây cối rải đầy lá thông dày dặn. Ánh nắng xế trưa bốc lên mùi cay của nhựa thông, tiếng chim thỉnh thoảng trong trẻo vang lên, như hình với bóng. Chẳng biết đã đi bao lâu, ông ngoại dừng lại, đưa bình nước cho tôi, bảo tôi chờ ở nguyên chỗ. Ông xuôi theo bụi cây không có dấu vết đường đi bò xuống đáy. Dùng tay nắm lấy cỏ tạp, cẩn thận nhích bước, từng chút từng chút tụt xuống. Cỏ xanh um tùm rung rinh trong gió. Bóng dáng ông rất nhanh mất hút.

Ngồi dưới bóng cây trên đỉnh núi, ánh nắng từ kẽ lá thông rắc đến trên mí mắt, giọt giọt ánh vàng nhấp nháy. Trong biếc xanh khắp núi, chỉ nghe tiếng thông reo trầm bổng trong gió lớn, như nước triều nhấp nhô. Gió thật lớn. Sắc trời xanh thẳm vô cùng lan tràn giữa những ngọn núi, mây trắng bồng bềnh. Khoảnh khắc ấy thời gian và trời đất tựa hồ dừng lại, ngưng đọng. Nhưng lại đặc biệt yên tĩnh rộng mở.

Đã đợi rất lâu, ông ngoại từ đáy khe núi bò lên. Cuốc ngắn của ông dính đất bùn, trong sọt tre sau lưng đựng hoa lan mới đào. Rễ to trắng bọc bùn mới, lá xanh dài mảnh giống như cọng cỏ mộc mạc, nụ hoa ẩn nấp trong đó, khó bị phân biệt. Ông càng đi càng xa, tìm kiếm tung tích hoa lan, lại chỉ hái sáu bảy khóm, trong lòng trong sáng, chẳng dính chút gì. Hái xong liền quay về.

Bà ngoại trồng những hoa lan này trong chậu đất thó tô điểm sân nhà, còn dư chia cho hàng xóm. Đài hoa sần sùi chóp phơn phớt tím vểnh lên, không cần phơi quá nhiều nắng, đặt dưới hành lang râm mát, qua mấy ngày nụ hoa đã bừng nở. Đóa hoa màu lục nhạt không dễ gây chú ý, đến gần ngửi kỹ, có một làn hương hoa thấm vào gan ruột, khiến người trong lòng thông suốt. Chúng là mùi hương như thế, khí vị thanh nhã, không khiến người có chút tạp niệm nào. Chỉ sinh trưởng ở khe núi sâu vắng khó đến, cách tuyệt với đời, khó hái, nhưng lại chẳng mảy may kiêu ngạo.

Người trong nhà đều yêu lan. Bản tính chân thực của hoa lan sẽ không bị phục chế và biến dị, cũng không giao dịch với thế gian này. Lan thầm khe vắng, xác đáng biết bao. Ông ngoại biết chúng ở đâu, mùa xuân hàng năm, đem lòng mến mộ vượt đường xa, đến nơi cũ thăm chúng. Điều này để lại ấn tượng trong lòng tôi.


(Trích "Tố niên cẩm thời", An Ni Bảo Bối)

No comments:

Post a Comment