28.4.14
Hôn nhân Tây Tạng (10)
Hảo Hảo:
Cuối cùng vẫn gửi một tin nhắn cho Trác Nhất Hàng, nói mình rất tốt không cần bận tâm.
Anh thật sự không phải là người em mong muốn sao? Anh nhắn lại.
Em muốn anh không nổi, ngay cả chính mình em cũng không muốn nổi, huống chi là anh? Rồi tắt điện thoại. Tôi không sở trường xử lý quan hệ dạng này, hai người đàn ông, mỗi người có ưu điểm riêng. Theo Trác Nhất Hàng, cuộc sống của tôi sẽ dễ chịu, nhưng lòng sẽ trống trải. Theo Gyatso, thể xác tôi sẽ khổ một chút, nhưng lòng sẽ vui vẻ. So ra, vui vẻ của con tim so với dễ chịu về thể xác vẫn quan trọng hơn. Chỉ đành có lỗi với Nhất Hàng. Khiến anh quên tôi thôi, khiến anh đi tìm cô gái khác thôi. Vừa nghĩ đến điều này, lòng lại có một chút không nỡ.
Nhất Hàng, rất nhanh sẽ có người phụ nữ khác sao?
Lại lắc đầu, nói, Hảo Hảo, mi là một cô gái hư, mi đứng núi này trông núi nọ, mi sẽ xuống địa ngục.
Ở ngã đường Chongsaikang, gặp cậu phục vụ quán bar Travelers, cậu gọi tôi là chị, nói đã lâu không gặp chị, Anh Sói bọn họ ngày ngày nhắc đến chị.
Em không nhắc chị sao? Tôi hỏi, cợt nhả nhìn cậu ta. Cậu nhóc đỏ bừng mặt, tôi cười ha hả, khệnh khạng bỏ đi.
Đi qua quảng trường, nhìn thấy “Lông Gà” toàn thân ăn mặc theo kiểu hiệp khách. Anh đội mũ mặc áo giáp sắt, đeo cung tên, khôi giáp và trên lưng còn cắm lông gà cảnh dài thượt. Trong đám Tạng phiêu, Lông Gà là nhân vật có tên tuổi, tính cách đơn thuần, hào tình trượng nghĩa. Mỗi lần đều đi xe máy vào Tây Tạng, xuyên ngang hơn nửa Trung Quốc, lái xe đi khắp Tây Tạng, câu chuyện của anh lưu truyền như thần thoại giữa đám Tạng phiêu. Thấy rất nhiều người đều đang quan sát anh, có ông Tây dứt khoát tiến đến, muốn chụp ảnh chung với anh.
Lông Gà ai đến cũng không từ chối, thần thái tự nhiên, bình thản.
Mỗi lần gặp anh đều cảm thấy đây là một anh chàng sinh nhầm thời đại, nếu ngược về mấy trăm năm, tất sẽ là hiệp khách giang hồ lừng danh bốn biển. Chào anh, hỏi anh về Lhasa lúc nào, anh đáp mới về, đến viếng chùa Jokhang trước.
Lông Gà, bước tiếp theo đi đâu? Tôi hỏi.
Không biết, nếu đều lập kế hoạch sẵn cả thì còn có thú vị gì. Anh nói, sau đó chắp hai tay, hướng về chùa Jokhang nhắm mắt.
Ngắm khuôn mặt Lông Gà trong ánh nắng, đen đến bóng loáng, hai mắt nhắm hờ, thành kính cầu khấn. Lông gà cảnh dài thượt phất phơ sau lưng, bị ánh nắng chiết xạ ra đủ màu. Anh thật sự không nên là người của thời đại này. Nghĩ như thế, không chỉ là anh, tôi, Anh Sói, cả đám Tạng phiêu chúng tôi, có ai lại không sinh nhầm thời gian, trong quỹ đạo cuộc sống mà Thượng đế sắp xếp, chúng tôi không tìm thấy bản thân, cũng không tìm thấy thú vui, do đó mới đến nơi này, ở cao nguyên Thanh Tạng được tôn xưng là “nóc nhà thế giới”, ở đỉnh cao của trái đất nơi núi tuyết sừng sững, tìm kiếm chốn về của tâm linh mình. Khi chưa đến, chúng tôi dùng phương thức của bản thân, tưởng tượng và không ngừng hoàn thiện vẻ đẹp của nó, sau khi đến, phát hiện người ở đây cũng ăn cũng uống cũng yêu, ngày tháng trong cuộc sống không hề rời chúng tôi mà đi xa. Bất kể xuất phát từ tâm tình kiểu nào, ở nơi người lạ đất không quen này, cởi bỏ sợi thừng trói buộc thân tâm chúng tôi, tự do hít thở, tự do ca hát. Đời người, có thể cho chúng tôi thời gian phóng túng như thế hoàn toàn không nhiều, thoải mái hưởng thụ mỗi một ngày ở đây, thoải mái hưởng thụ mỗi một giờ phút hữu duyên.
Sau đó quả thật vẫn theo Liên đi luyện một lần yoga, trong tiếng nhạc nhẹ nhàng chậm rãi, Liên dẫn dắt chúng tôi thư giãn cơ thể, nhưng trong lúc thả lỏng tôi lại ngủ thiếp đi. Sau khi tỉnh giấc bẽn lẽn cười bảo: Liên, trò này xem ra không thích hợp với tớ.
Không thích hợp với cậu chỗ nào? Liên đang thu dọn đĩa nhạc, quay đầu lại cười. Tỉnh dậy rồi à?
Tôi gật gật đầu, sau đó nói: Trò này quá chậm, tớ thích những vận động kịch liệt.
Cậu đó, luôn cho bản thân định vị chủ quan. Hảo Hảo, có lúc yên tĩnh một chút cũng rất tốt, có thể suy ngẫm mình rốt cuộc cần gì.
Tớ không suy nghĩ vấn đề phức tạp như thế. Nhu cầu lúc này tớ biết rõ, nhu cầu của thời khắc tiếp theo thì đến thời khắc tiếp theo hãy nói. Tôi đáp, sau đó mặc áo khoác, cùng cô xuống lầu.
Nếu tôi bảo tôi hoàn toàn không hiểu bản thân, có lẽ người khác sẽ cười. Nhưng rất nhiều khi tôi quả thật không hiểu bản thân, có lúc tôi có thể tắt điện thoại mấy ngày không ra khỏi cửa, yên yên tĩnh tĩnh ở trong phòng, lên mạng, nghe nhạc, xem phim… Có lúc tôi lại chẳng nấn ná được một phút, nôn nóng đến nỗi như sắp nổ tung, chạy loạn khắp nơi, tìm kiếm kích thích, tìm kiếm mọi cách có thể tiêu hao thời gian. Hai kẻ này đều là tôi, chỉ là kẻ nào chân thực hơn, kẻ nào tiếp cận linh hồn của mình hơn, tôi lại không biết, ngày tháng khiến tôi rong chơi giữa hai cô Hảo Hảo, từ từ tan biến…
Chiếc nhẫn kim cương nho nhỏ mà Minh tặng vẫn nằm trong góc ngăn kéo, thỉnh thoảng lúc tìm đồ sẽ lục ra, hộp nhung, nhỏ nhắn xinh xắn, theo phản ứng bản năng có lẽ sẽ mở hộp, lấy ra vòng tròn màu trắng có hạt kim cương ấy lồng vào ngón áp út, lớn nhỏ vẫn vừa vặn, chìa ngón tay về phía ánh sáng, ngắm nó phát ra ánh sáng lóng lánh.
Kim cương, loại đá cứng rắn nhất trên thế gian, mãi mãi không biến đổi màu sắc và độ cứng. Do đó, phụ nữ liền gửi gắm ảo tưởng của mình đối với hôn nhân cho nó, mong tình yêu cũng có thể giống như kim cương, mãi mãi sáng đẹp mãi mãi duy mỹ mãi mãi tươi mới. Bất kể lý trí nhường nào rõ ràng nhường nào nói với bản thân, tình yêu là không thể mãi mãi sáng đẹp mãi mãi duy mỹ mãi mãi tươi mới, nhưng khi tình yêu đến, lại đều si ngốc kỳ vọng, ảo tưởng không sát thực tế như vậy, thậm chí dùng viên kim cương giá trị này để đại diện cho nó.
Trời lại mưa, tôi nhanh chóng tháo nhẫn kim cương ra bỏ vào hộp, vứt vào chỗ sâu trong ngăn kéo. Ngồi trên tấm thảm bên cửa sổ ngắm những sợi mưa trượt xuống trên cửa kính. Cố chấp cho rằng, bầu trời Lhasa cao hơn nơi khác, mưa cũng sạch hơn nơi khác. Nước mưa trong sáng, chảy vào đất bùn, tưới nhuần cho hoa cho cây cành lá tươi tốt.
Nước mưa và hoa, phải chăng cũng giống như nam và nữ. Đã bổ sung cho nhau lại chia cách lẫn nhau.
Lúc nào mình mới mua được một sân nhà thế này nhỉ? Ở Lhasa, cứ thế già đi.
Quyến luyến của Gyatso đối với tôi càng ngày càng sâu sắc, anh thường ôm tôi, chẳng có nguyên do nói: Hảo Hảo đừng rời xa anh được không? Hảo Hảo em chỉ theo anh nhé? Hảo Hảo em sẽ không biến mất chứ? Tôi luôn cảm thấy nội tâm của anh không kiên cường như ngoại hình của anh, người đàn ông cao lớn này ban đêm bỗng nhiên tỉnh giấc, ngơ ngác thẫn thờ, sau đó ôm tôi, cũng bất kể tôi có tỉnh táo hay không, liền cuồng loạn đòi hỏi tôi.
Gyatso, người đàn ông của tôi, trong lòng anh rốt cuộc giấu giếm bí mật thế nào, vì sao mắt anh sầu muộn như vậy? Là nỗi lo lắng ra sao khiến anh bất chấp tất cả, xem mỗi một ngày như ngày tận thế mà sống.
Mùa mưa của Lhasa khiến người thương cảm, cũng khiến người mê luyến. Sợi sợi dòng dòng, gắn liền trời đất thành một khối. Con người cũng theo đó rầu rĩ, sợ được sợ mất khiến cảm xúc của tôi lại bất ổn. Luôn cảm thấy mình là vật nuôi thả, sở trường lớn nhất chính là đối với cục diện không thể nắm bắt, bất cứ lúc nào nơi nào đều có thể bôi trơn gót chân chuồn đi, chỉ cần cảm thấy tình cảm này không thích hợp với mình, không thể khiến mình vui vẻ, lập tức có thể dứt ra, đi khỏi cục diện bất cứ kẻ nào bố trí cho mình mà không chừa lại một chút chỗ trống.
Từng cho rằng, tự do đối với tôi quan trọng hơn gia đình. Vì nó, không tiếc thứ gì.
Thế nhưng, ở chung với Gyatso, bất tri bất giác đang thay đổi những thói quen này. Bất tri bất giác, bản thân giống như con côn trùng sa lưới, bắt đầu không ngừng vùng vẫy, nhưng chẳng thoát khỏi lưới tình.
Trác Nhất Hàng tìm tôi khắp nơi, nhờ Anh Sói bọn họ liên hệ tôi, muốn nói chuyện với tôi. Tôi không tỏ rõ thái độ, gật đầu, lại lắc đầu. Gặp mặt, còn có thể nói gì? Tôi lúc này, muốn có bản thân cũng là xa xỉ, huống hồ muốn có anh? Người đàn ông tinh tế nho nhã như thế, tôi muốn không nổi.
Thường kéo Gyatso đi xem phim, bỏ ra mấy chục đồng, xem kẻ khác làm sao diễn dịch đời người đặc sắc, sau đó đến nhà hàng Tây ăn beefsteak, lại nắm tay anh men theo bờ sông đi về nhà. Ngày tháng của những người yêu nhau, phải chăng đều nên trải qua như thế?
Thỉnh thoảng gọi điện thoại về nhà, khi cha nhận điện thoại luôn bảo cha mẹ mọi chuyện đều tốt, muốn tôi chú ý sức khỏe, trên cao nguyên khí hậu thay đổi thất thường, chú ý đừng sinh bệnh. Mẹ luôn nói Hảo Hảo về nhà đi, con cũng lớn già đầu không còn nhỏ nữa, nên kết hôn sinh con, phụ nữ lớn tuổi sinh con không tốt… Trong mắt cha mẹ, độ tuổi này của tôi, hẳn sớm đã kết hôn sinh con yên ổn rồi? Con gái của họ lại phiêu bạt bên ngoài ngày về không xác định, trở thành đề tài đàm tiếu sau lưng của tất cả họ hàng tất cả bạn bè.
Nắm tay anh đi qua cầu nhỏ, xuôi theo con đê mà đi. Điện thoại của tôi đột nhiên reo vang, liếc nhìn, số lạ, khi nhận, đối phương nói: Hảo Hảo, anh nhớ em chết được, em đang ở đâu?
Anh là ai?
Em đoán xem.
Nghe một gã đàn ông trưởng thành nói chuyện như thế, toàn thân tôi nổi da gà. Nếu anh không nói anh là ai, tôi sẽ cúp máy.
Đoán thử đi mà, em yêu, anh quả thật rất nhớ em, em đang ở đâu vậy?
Tôi ở bên người đàn ông của tôi. Tôi nói, bất giác vui hẳn lên. Gyatso cũng cười, hôn lên mặt tôi.
Đối phương im bặt, tôi cười ha hả, cúp máy.
Ghét nhất loại người này, bất kể tâm tình người khác thế nào, cũng bất kể người khác đang làm gì, đùa cợt lung tung theo hứng chí của mình.
Sau khi rẽ ngoặt, đột nhiên nhìn thấy một chiếc Land Rover màu trắng đậu bên đường, Trác Nhất Hàng đang cùng hai người đàn ông đứng dưới bóng râm tán gẫu. Nhìn thấy chúng tôi, thoáng ngẩn người, rất nhanh liền quay đầu đi, giả vờ ngắm phong cảnh. Tôi cúi đầu, phản ứng bản năng buông tay Gyatso ra, bước nhanh lên trước. Khi đi lướt qua, hận dưới chân không có khe nứt để chui xuống.
Gyatso lại chẳng cảm nhận được chút nào, chỉ theo sát phía sau tôi, thỉnh thoảng trêu đùa tôi vài câu.
Ngượng ngùng, dù không để tâm thế nào, lúc này chạm mặt, vẫn không phải là thời điểm tốt. Nhất Hàng, tuy nói với bản thân phải buông tay, nhưng thật sự làm được buông tay cũng không dễ. Anh, nói cho cùng, phù hợp mộng tưởng bao năm trong đáy lòng tôi: giàu có, nho nhã, ấm áp. Bỏ lỡ như thế, sau này phải chăng sẽ nuối tiếc?
Lâu rồi đều đang suy nghĩ vấn đề này.
Qua rất lâu, Nhất Hàng đều chẳng có tin tức. Nghĩ rằng anh có lẽ thật sự quên tôi rồi? Như vậy chẳng phải rất tốt sao? Mãi đến một hôm, Gyatso đi vắng, một mình ngồi trên sân thượng, nghe bài hát “Người con gái đuổi gió”, lại nghe tin nhắn điện thoại reo, cầm lên mở ra.
Nhớ em, mỗi một ngày đêm. Còn nhớ đêm đó ở phố Barkhor không? Nhặt em về, như một con mèo nhỏ cuộn tròn trong lòng anh. Đêm đó đẹp đẽ biết bao ngọt ngào biết bao, chẳng lẽ cứ thế bỏ lỡ?
Xem xong, muốn khóc. Nhắn trả lời không phải không muốn có anh, là muốn không nổi. Nhất Hàng, anh quá ưu tú, ưu tú đến nỗi khiến em ở bên anh đều cảm thấy áy náy.
Chúng ta không thể thử sao? Có lẽ, chúng ta có thể cọ xát để gắn bó với nhau. Những ngày này, một mình ngồi trên ghế, nghe nhạc, nhớ em, đêm không ngủ được. Em yêu, tưởng nhớ những ngày tươi đẹp đó, chẳng lẽ em thật sự nhẫn tâm cứ thế rời đi?
Không nhẫn tâm lại có thể thế nào? Nhất Hàng, thay vì sau này anh chán ghét rồi em ra đi, chi bằng hiện giờ chia tay càng dứt khoát.
Anh làm sao có thể chán em? Có em là phúc của anh.
Rồi anh sẽ chán em. Rồi có một ngày, khi em già đi, dung nhan không còn nữa, ánh mắt của anh sẽ chuyển dời.
Em yêu, đừng nói như thế, chúng ta đều sẽ già đi. Nhớ em thành bệnh, có thể đến gặp anh không?
...
Tôi quả thật không nói tiếp được, tắt điện thoại, tựa trên ghế, nước mắt không ngăn nổi chảy xuống. Giờ này nơi này, lòng tôi rất đau. Không muốn xóa những tin nhắn ấy, cứ xem là một niệm tưởng vậy.
Mấy ngày nay Gyatso đều hồn vía đâu đâu, anh cứ nghịch điện thoại của mình, táy máy lật tới lật lui. Hỏi anh, lại chẳng nói gì cả. Tôi không hiểu người đàn ông này, vừa bắt đầu đã chưa từng hiểu, hiện tại càng không hiểu.
Đêm khuya, khi tôi tỉnh giấc trên ngực anh, anh luôn luôn vẫn đang nhìn trần nhà mê man.
Tôi không rõ, trần nhà kiểu Tạng che một lớp vải hoa đó có gì đẹp.
Anh thậm chí không ra khỏi cửa, cả chuyện làm ăn cũng không lo. Tôi từng thử hỏi anh: Em trai đâu? Em gái đâu? Họ đã về rồi, anh nói. Phải ăn lễ Ongkar, họ đều về cả rồi.
Mỗi lần anh nhắc đến “Họ đều về cả rồi”, giọng điệu lại thương cảm. Người đàn ông này vừa không ngừng đòi hỏi thân thể tôi, lúc cao trào điên cuồng gào: “Em là người phụ nữ của anh, em là người phụ nữ của Gyatso anh, suốt đời này đừng nghĩ rời xa anh!”, lại vừa thương cảm.
Anh không về ăn lễ sao? Tôi hỏi. Ngày lễ của người Tạng rất nhiều, nhiều đến nỗi tôi cơ bản không rõ tên. Nhưng tôi thích ăn lễ của họ, ngày lễ nào cũng thế. Vui vẻ, chẳng phải sao? Chỉ cần vui vẻ là được. Tôi thích đứng giữa đám người nhớp nhúa đó, lắc lư theo bước chân cuồng loạn của họ. Mặc kệ lắc điệu gì. Tôi vui vẻ, quên mất bản thân cũng quên mất người khác, đây chính là điều tôi muốn. Giữa đám người nhốn nháo, cũng không nghe thấy điện thoại reo nữa, nên chẳng còn gánh nặng tâm lý.
Đúng thế, tôi có gánh nặng tâm lý. Tôi sợ nghe điện thoại reo. Sợ Nhất Hàng gọi điện thoại, thậm chí, sợ Liên gọi điện thoại, chỉ có ở nơi xa lạ, giữa đám đông xa lạ, tôi mới không e sợ, ít ra là tạm thời không e sợ nữa.
Một tuần sau khi Gyatso và tôi vào ở trong sân nhà nhỏ kiểu Tạng này, không hiểu sao anh lại mất dạng. Gọi điện thoại, truyền đến tiếng nói đáng ghét: “Điện thoại bạn gọi không nằm trong vùng phủ sóng.” Khiến tôi mấy lần đều hoài nghi, tôi thật sự sở hữu người đàn ông như thế sao? Mỗi lần hoài nghi, tôi đều sờ người mình. Đúng vậy, cảm giác dưới ngón tay rõ ràng nói cho tôi biết, tôi từng sở hữu, những vết hôn khắp người, khăn trải giường bừa bộn, mùi dầu bơ đầy nhà, đó đều là dấu ấn anh để lại cho tôi. Thế nhưng, hiện tại anh không có mặt, ngoài những dấu ấn thuộc về anh này, chẳng có hơi ấm cơ thể, chẳng có ánh mắt nóng bỏng, chẳng có ôm ấp cuồng dại…
Anh đã đi đâu? Gyatso của tôi đã đi đâu?
Một lần nữa anh vứt tôi vào một ngóc ngách tăm tối của thành Lhasa, khiến tôi run cầm cập vào mỗi đêm mưa như trút nước.
Ở trong nhà buồn bực hai ngày, bản thân cũng ngửi được mùi mốc meo trên người. Tôi sắp chết ư? Vì sao trên người có mùi đất nặng như vậy? Tóc cũng rụng xuống từng nắm, trên gối, trên gường, trong nhà vệ sinh… Khắp nơi đều là tóc.
Tôi là người gì? Vì sao tôi phải làm cho mình nên nông nỗi này? Tôi ngồi phịch xuống đất, trên người chỉ mặc một chiếc áo lót, vào một ngày tháng tám, ở một góc nào đó của thành phố ngập nắng, đơn độc tự liếm vết thương.
Tôi lạnh, thật sự lạnh, lạnh lẽo thấu xương.
Tôi lẹ làng mặc áo. Váy hoa, mũ hoa, quần jeans, giày đế bằng, khoác hết lên người, sau đó túm lấy túi xách, nhanh như bay xông ra khỏi ngôi nhà nhỏ kiểu Tạng đó.
Không ngoảnh đầu lại, tuyệt đối không ngoảnh đầu lại.
Chạy qua từng ngõ rồi từng ngõ hẻm, chạy qua từng đám rồi từng đám người xa lạ, tôi lại đứng ở quảng trường chùa Jokhang.
Ánh nắng ấm áp bao vây tôi, thật ấm áp, tựa như vòng tay mẹ. Tôi hé mắt, nhìn lên bầu trời, trên trời xanh, mây trắng giống như kẹo bông gòn, đông một đám tây một đám.
Tôi vẫn đang sống. Tôi nói với bản thân, tôi vẫn đang sống tử tế.
Khi tôi ý thức được “mình vẫn đang sống”, trong lòng vẫn có một tia vui sướng.
Sống dưới ánh nắng thật là tốt! Tôi bỗng hướng lên trời hét lớn một tiếng: Gyatso, anh đi chết đi! Rồi lại bắt đầu chạy.
(Dorje Zhoigar)
25.4.14
Hôn nhân Tây Tạng (9)
Zhoigar:
Tashi nhờ người mang tin về trước, bảo chúng tôi hôm sau ra bên đường cái đón anh.
Buộc hai con lừa nhà, cùng Namgyal đi từ sáng sớm.
Nơi đợi xe có một bãi đất bằng phẳng, các nhà trong núi xung quanh ra vào đều nghỉ chân ở đây. Đường đất của làng núi, xe vừa qua, bụi đất bay mù mịt. Khi chúng tôi đến, ở bãi đất đã có một số người, túm năm tụm ba uống rượu với nhau, hơn chục con lừa tản mát bốn bên. Nhìn thấy chúng tôi, chào hỏi lẫn nhau. Sắp đến ngày lễ, nhà nhà hộ hộ cần mua đồ, nghĩ chắc họ cũng đến đón người!
Tôi và Namgyal tìm một chỗ gần bờ sông ngồi xuống, thả lừa ra, chuyện phiếm câu được câu chăng. Gần đến trưa, xa xa nhìn thấy một chiếc xe khách, kéo theo cát bụi lê thê chạy đến. Ngoài cửa sổ xe, thừng anh hùng trên đầu Tashi đung đưa, đặc biệt chói mắt!
Xe còn chưa dừng hẳn, nhóc Dejie đã gọi “A-jia” nhảy ào xuống, sà vào lòng tôi. Tôi ôm em, hỏi em Lhasa có vui không? Em gật đầu lia lịa, nói Lhasa đẹp cực kỳ, còn gặp anh cả, anh cả dắt tụi em đi cung Potala, đi chùa Jokhang, còn mua rất nhiều đồ ở phố Barkhor. Em líu lo nói không ngớt, hận không thể kể hết cho tôi những thứ được ngắm, được ăn mấy ngày nay!
Nhưng điều tôi nghe thấy duy nhất chính là em đã gặp “anh cả”! Người đàn ông của tôi, gia trưởng của tôi. “Anh ấy… anh cả em, lễ Ongkar anh ấy không về sao?”
“Không về, anh cả nói anh ấy có rất nhiều việc phải làm, năm nay không về ăn lễ!”
Dù sớm có chuẩn bị, lòng tôi vẫn vì thế mà trống trải.
Tashi xuống xe, tha thiết nhìn tôi, chẳng nói gì, đón lấy dây thừng trên tay tôi gọi Namgyal cùng đi dỡ hàng.
Lúc đó, một bóng dáng quen thuộc đi về phía tôi: “Zhoigar la, đã lâu không gặp, em khỏe chứ?”
“Rinchen la?” Tôi ngạc nhiên nhìn anh, không hiểu sao anh lại đến!
“Anh ấy là bạn học của anh hai, chị không ngờ phải không? Nhưng chỉ học chung có hai năm, anh hai đã không đi học nữa!” Dejie lém lỉnh nháy mắt với tôi, đắc ý nói: “Anh hai và anh Rinchen gặp nhau ở phố Barkhor, nói chuyện, mới biết anh chị cùng làng. Lần này anh Rinchen phải về đám cưới, anh hai bèn mời anh ấy đến nhà chúng ta trước, làng họ phải tuần sau mới ăn lễ Ongkar!”
“Chuyện này thật trùng hợp!” Tôi thở phào nhẹ nhõm, chỉ cần không phải nhằm tôi mà đến là được. Cuộc sống hiện nay đã đủ lộn xộn rồi, tôi không muốn xảy ra chuyện gì nữa!
“Đúng đấy, anh gặp được Tashi, trò chuyện mới biết em lại gả đến nhà họ.” Rinchen đón lấy đồ trên vai Tashi đặt lên lưng lừa, cùng Namgyal mỗi bên một người dắt thừng, nói: “Địa phương lớn chừng này, quay tới quay lui đều là người quen. Em thế nào? Zhoigar la, sau khi đám cưới vẫn chưa về nhà phải không? Lễ Ongkar có về không? Em không phải vừa kết hôn đã quên mất cha mẹ chứ? Ha ha…”
“Ăn nói quàng xiên. Anh cũng sắp đám cưới rồi, vẫn chẳng tiến bộ?” Tôi lườm anh. Thấy họ đã buộc xong, bèn bước đến cởi thừng, lừa rảo bước thẳng hướng con đường lúc đến, chúng tôi theo sau, vừa tán gẫu, vừa đi về nhà, tiếng lục lạc leng keng vang suốt dọc đường!
Rinchen và Namgyal đi đằng trước, Dejie ở giữa, tôi và Tashi sánh vai đi đằng sau.
“Tashi, có nhớ em không?” Tôi nhìn anh bên cạnh, sao cứ cảm thấy khang khác so với trước đây? Rõ ràng anh muốn nhìn tôi, ánh mắt ngó qua, lập tức lại vòng về. Tôi thích thấy bộ dạng Tashi mắc cỡ, cảm thấy một người đàn ông cao lớn đỏ mặt đặc biệt thú vị. Khi anh một lần nữa nhìn tôi rồi nhanh chóng thu ánh mắt về, tôi thích chí, cố ý lớn tiếng hỏi. Hai anh chàng đằng trước sớm đã cười nghiêng ngả, mặt Tashi càng đỏ, khẽ nói: “Đừng nói nhảm...”
“Em nói nhảm ư? Nói vậy anh không nhớ em à!” Tôi dừng bước nhìn anh, nói càng lớn tiếng: “Em lại nhớ anh, ngày ngày nhớ đấy!”
Rinchen ôm bụng nhảy cẫng, sau đó chỉ Tashi nói cà lăm: “Tashi, cậu biết nhà các cậu đã cưới cô gái thế nào chưa? Ma nữ, cô ấy chính là ma nữ nổi tiếng chỗ chúng tôi!”
“Đi chết đi!” Tôi vung chân đá một hòn đá qua, trúng ngay bụng Rinchen. “Đây là địa bàn của tụi em, đời nào đến lượt tên nhóc anh lên tiếng!”
“Anh... Anh...” Tashi gục đầu, ấp úng nửa ngày, vẫn không nói ra một chữ.
“Ha ha ha...” Nhìn dáng vẻ của anh, tôi quả thật không nhịn được phá lên cười ha hả. “Chọc anh chơi thôi, xem anh cuống lên kìa, anh không nhớ em cũng chả sao mà!”
“Không phải không phải, anh... cái đó... em...” Tashi càng cuống, cả người lắc lư, vẫn nói không ra một câu hoàn chỉnh.
“Một đấng nam nhi, xem xem bị em dày vò thành bộ dạng ra sao? Zhoigar, anh thật phục em, đám cưới rồi vẫn chẳng thay đổi gì cả!” Rinchen cười đến không thẳng lưng lên được, nắm cánh tay Namgyal. Namgyal cười lớn, không ngừng vỗ lưng Rinchen, Dejie cười đến cứ kêu đau bụng.
Chúng tôi cứ thế vừa đi vừa cười giỡn. Lúc này tôi mới biết, tháng đó tôi đám cưới, Rinchen đã thôi học, muốn đi Lhasa làm công, cha anh không đồng ý, bắt anh em anh nhanh chóng đám cưới. Chẳng còn cách nào, Rinchen bèn len lén theo người ta đi Lhasa. Cha anh biết, đi tìm anh một lần, sau khi trở về rất nhanh đã định một mối hôn sự cho các con trai, chuẩn bị lần này ăn xong lễ Ongkar sẽ đám cưới.
“Rinchen la, anh cũng sắp đám cưới rồi?” Tôi nhìn Rinchen đang nói chuyện với Tashi, hỏi anh.
“Cái gì gọi là cũng sắp đám cưới rồi, làm như anh không thể đám cưới vậy?” Rinchen quay đầu nhìn tôi, lại bắt đầu nói hươu nói vượn. “Đừng cảm thấy em đã đám cưới, người khác nên cả đời sống độc thân chứ? Tashi, hẳn cậu không biết? Anh em nhà tớ lúc đó từng bàn tính cưới Zhoigar đấy, đáng tiếc vẫn chưa thưa chuyện với cha tớ, nhà các cậu đã cưới cô ấy về rồi. Ha ha…”
Tashi còn chưa nói, Namgyal lại tiếp lời: “Anh Rinchen, may không bị nhà các anh cưới đi, nếu không, tụi này làm sao có được cô vợ tốt như thế?”
“Rinchen, nhắm tướng cậu, việc gì cũng không biết làm, còn cưới được vợ ư? Cậu lấy gì nuôi?” Đừng thấy Tashi trước mặt tôi vâng vâng dạ dạ, đổi người khác, anh không như thế nữa, cười nói như thường.
“Nói gì nói gì vậy, hai anh em các cậu hùa nhau ăn hiếp người ngoài tôi đây. Ê, Zhoigar, em có quản lý họ không hả?” Rinchen cười lớn chạy lên đằng trước. Ở chỗ chúng tôi, giữa nam nữ trước khi đám cưới thế nào, sẽ không ảnh hưởng đến cuộc sống sau khi cưới. Mọi người đều rất rõ ràng, ngày tháng đã qua, dù là dạng nào, đó đều đã là quá khứ. Giống như lá trên cây, lá cũ đã mãi mãi rụng xuống, hòa vào đất bùn, chỉ có thể trở thành phân bón, nuôi dưỡng cây lớn càng thêm tươi tốt, mà lá mới mới là hy vọng của tương lai.
Nắng rất gắt, phơi đến đỉnh đầu nhưng nhức. Gần đây chẳng biết làm sao, phơi nắng lâu liền váng đầu. Khi tôi một lần nữa đứng lại nhìn mặt trời, Tashi bước gấp mấy bước, nắm lấy con lừa gọi tôi: “Em qua đây!” Tôi cho rằng thừng lỏng rồi, vội bước qua.
Anh cởi mũ mình xuống chụp lên đầu tôi, nói: “Em cưỡi lên đi!”
“Không cần đâu, em cùng đi với các anh, để em Dejie cưỡi!” Nhìn thấy ánh mắt nóng bỏng của anh, lòng tôi lại hơi hoảng loạn! Đừng thấy tôi vừa mới trời không sợ đất không sợ trêu chọc anh, một khi thật sự đối mặt với thâm tình của anh, tim vẫn cứ đập thình thịch.
“Em chả cần, em muốn đi chung với anh Rinchen, nghe anh ấy kể chuyện!” Dejie nhảy chân sáo đi lên trước, đuổi kịp bước chân Rinchen.
“Con bé có gì đáng lo!” Tashi không cho phân bua liền ôm ngang hông tôi, đặt lên kiện hàng trên lưng lừa.
“Vẫn là Tashi biết thương người. Namgyal, học hỏi chút đi!” Rinchen hướng về chúng tôi huýt sáo, bộ dạng lêu têu càn quấy, khiến tôi hận không thể đá anh mấy cái.
Namgyal bước tới muốn dắt thừng, bị Tashi gạt ra, anh nắm dây thừng trong tay mình. “Không cần, em trông con lừa kia, đến khe núi nhớ thả nó uống nước!” Lừa thồ hàng đều đeo rọ mõm, chủ yếu là sợ trên đường ăn hoa màu của người khác. Đến nơi có nước, người chủ lại cởi ra cho nó uống chút nước ăn chút cỏ, bổ sung thể lực. Gia súc là tư liệu sản xuất quan trọng nhất trong gia đình, bạn yêu quý nó, thương nó, nó sẽ đền đáp bạn càng nhiều.
Tashi dắt lừa, cố gắng hết sức vòng tránh những chỗ gồ ghề lồi lõm. Tôi cưỡi trên lưng lừa, đội mũ của anh, hơi rộng, thỉnh thoảng phải giữ một chút, nhưng so với vừa rồi dễ chịu hơn nhiều, lắc la lắc lư còn cảm nhận được một chút gió mát. Ngắm bóng lưng của Tashi, cao lớn, tóc dài quấn trên đầu, thừng anh hùng màu đỏ buông xuống bên tai. Người trẻ tuổi để kiểu tóc như vậy càng ngày càng ít, từ đó cũng có thể nhìn ra anh là một người đàn ông truyền thống. Đàn ông dạng này sẽ không dễ dàng thay đổi tâm ý của mình, họ không thích biến hóa sớm ba chiều bốn, luôn đi một bước nghĩ ba bước, yên ổn thỏa đáng là nguyên tắc sống của họ.
Nghĩ bụng một tuần không gặp thôi, sao anh trở nên tế nhị như vậy nhỉ? Trước đây, anh cũng thương tôi, nhưng sẽ không biểu hiện rõ ràng như vậy, đặc biệt trước mặt người khác, anh cứ ngại ngùng, quan tâm nồng nhiệt đến mấy biểu hiện ra đều mang vẻ thẹn thò. Nói thật, một tuần này tôi không nhớ anh cho lắm, trừ thi thoảng lúc bận rộn không xuể, cảm thấy nếu anh có mặt, mình sẽ không mệt nhọc như vậy, anh luôn giành làm hết mọi thứ. Vả lại, một tuần này, tôi có Namgyal, anh bá chiếm thân tâm tôi. Namgyal tuy không thạo việc lắm, nhưng anh khéo nói, anh luôn có cách khiến tôi lúc nào cũng cười ha hả.
Đến chỗ khe núi, theo thói quen phải nghỉ một lát. Cuộc sống của chúng tôi chính là như vậy, bất kể mùa nào, bất kể chuyện lớn tày trời xảy ra, vẫn phải uống rượu, vẫn phải ca hát.
Tashi chìa tay ra, ôm eo tôi, ẵm tôi xuống. Cánh tay anh rất đỗi mạnh mẽ, cách lớp áo vẫn chạm được cơ bắp cuồn cuộn. Khoảnh khắc chân chạm đất, tôi thấy mặt Tashi lại đỏ đến tận cổ, mắt lấp lánh có chút phiêu hốt, trong đó là bóng của tôi.
Thấy anh đỏ mặt, một lần nữa tôi trỗi lên ham muốn trêu chọc anh. Tôi thình lình cắn một cái trên dái tai anh, nhìn thấy anh càng ngượng ngập, mắt nhìn lung tung bốn phía, tôi lại cười ha hả.
Namgyal lấy xuống rượu thanh khoa buộc trên lưng con lừa kia, thả nó ra. Chúng tôi tìm một mảnh đất bằng phẳng, ngồi bệt xuống đất, từ trong mình móc ra ly của mỗi người đặt trên mặt đất.
Chỉ cần ra cửa, dù đi làm gì, chúng tôi luôn mang theo ly rượu của mình, đây là thói quen. Đối với chúng tôi uống rượu thanh khoa cũng bình thường như người nội địa uống trà, ngay cả trẻ con đi học, đều mang theo một bình rượu thanh khoa. Bất kể lúc nào nơi nào, bất kể người nào, chỉ cần hơi rảnh rỗi, liền uống một ngụm.
“Rinchen, anh sắp đám cưới thật à?” Tôi uống một ngụm rượu, hỏi lần nữa. Tôi và Rinchen vốn là bạn chơi lúc nhỏ, thường ngày nói chuyện không cần khách sáo như thế. Vừa rồi vì bỗng nhiên gặp được anh, có chút không quen, mới dùng lời lẽ kính trọng. Bây giờ ổn rồi, trải qua ầm ĩ dọc đường, đôi bên đều tìm về cảm giác quen thuộc, bèn không khách sáo nữa, khi xưng hô, liền tự giác bỏ từ kính trọng “la” đằng sau tên.
“Phải, cha anh chẳng biết đã quyết định lúc nào, tuần trước nhờ người đem tin bảo anh về đám cưới.” Rinchen đón lấy rượu Namgyal mời, tợp một hớp rồi đặt xuống.
“Đằng gái là ở đâu anh biết không?”
“Không biết. Chỉ nghe cha anh nói là núi bên này, nhưng rốt cuộc làng nào ông không nói!” Rinchen hơi thương cảm. Chúng tôi đều như thế, sắp kết hôn lại không biết người ấy là ai, tướng tá thế nào!
“Nói không chừng xấu đau xấu đớn, anh Rinchen ạ!” Namgyal châm đầy rượu trong ly cho anh, cười giễu cợt.
“Dẹp cậu đi!” Rinchen vỗ đầu anh, cầm bình rượu rót đầy cho Tashi, hai tay bưng lên đưa cho anh. “Tớ đúng là xui xẻo, các cậu đã cưới Zhoigar xinh đẹp, để tớ cưới cô ả xấu xí, cậu bụng dạ gì đây hả?”
“Chuyện này chỉ có thể phó thác cho trời. Nhưng chung quy là phải đám cưới, sớm muộn đều như nhau. Cha anh chắc cũng không thể tìm cho các anh một đám không tốt? Nay mai sẽ thành người một nhà, cùng chung sống đấy!” Tôi khuyên anh, cũng là khuyên mình.
“Đừng nghĩ nhiều như thế, đám cưới xong sẽ biết thế nào ngay mà!” Tashi nói. “Cậu xem tụi tớ, chẳng phải cũng do cha làm chủ quyết định sao? Rất tốt mà.” Khi anh nói “rất tốt”, nhìn tôi một thoáng, ánh mắt ấy, sâu như nước đầm, khiến tim tôi cũng theo đó run rẩy.
Đêm nay ắt là sắc xuân vô biên? Tôi bắt đầu có chút mong đợi rồi!
Về đến nhà, thanh lý hàng họ xong xuôi, không ngoài một số thứ như cải trắng, củ cải và bia. Sau khi xếp hết vào kho, Namgyal kêu ra đầy người mồ hôi, ồn ào đòi đi tắm. Tashi nói anh còn phải chuẩn bị cỏ cho buổi tối, bảo họ đi trước. Vóc người Rinchen na ná với Namgyal, tôi lục một bộ quần áo cho anh, thế là cha chồng và Namgyal, Rinchen liền đi trước.
Vì có Tashi chăm lo gia súc, công việc của tôi bớt đi rất nhiều, từ sớm bắt đầu chuẩn bị cơm tối. Khi cha chồng sắp đi dặn dò, quê tôi hiếm có khách đến chơi, chúng ta không thể tiếp đón người ta không chu đáo, bảo tôi lấy một cái đùi cừu ra hầm củ cải.
Chúng tôi ở đây do độ cao cao, khí áp không đủ, nấu cơm nấu mì đều phải dùng nồi áp suất. Tôi nhớ trên thị trấn có hai gia đình buôn bán người Hán, lúc mới đến không biết, cơm nấu đều sống, vì vậy hai người ngày ngày cãi nhau, sau đó quen thân với dân địa phương, đến khuyên can mới làm rõ chuyện, nấu cơm biết phải dùng nồi áp suất. Chuyện này ở chỗ chúng tôi đã xem như chuyện cười truyền miệng rất lâu.
Tôi bỏ thịt vào trong nồi áp suất, nhúm một nắm nhỏ hoa tiêu dại bỏ vào, còn đặc biệt bỏ vào một miếng gừng tươi Tashi lần này mua về. Hoa tiêu dại là tôi hái lúc thả cừu hôm qua, trên núi khắp nơi đều có, mùa thu nghe nói có thương nhân người Hán chuyên đến đây thu mua, nói người nội địa rất thích những thứ mọc dại này, xem ra trong núi lớn này vẫn có không ít bảo bối! Gừng tươi là tôi nghe Chongtsong nói, cô bảo người Hán khi nấu thịt cừu đều thích bỏ một miếng, có thể khử mùi gây, do đó lần này đặc biệt dặn Tashi mua về.
Tôi chầm chậm làm những việc này, chia nước thành nửa gáo nửa gáo đổ vào, từ tốn đậy nắp, mình rõ ràng đang cầm van khí lại tìm nó khắp nơi, cuối cùng loay hoay đến nỗi chính mình cũng không biết làm gì, mãi đến khi Tashi ôm củi vào, tôi mới áp van lên theo phản xạ có điều kiện.
“Để em, anh lên nói chuyện với mẹ đi.” Thấy anh châm lửa, tôi bước tới nói.
“Em nghỉ một lát!” Anh không nhìn tôi, chỉ lúng búng nói một câu như thế.
Lòng tôi vì sao hoảng loạn như vậy? Trời ạ! Tôi có chút không rõ, anh là chồng của tôi mà, tôi chả phải lần đầu gặp anh, sao lại giống như thiếu nữ hoài xuân chứ? Gan dạ của tôi đâu? Zhoigar sắc sảo hồi chiều đâu mất rồi?
Lưỡi lửa liếm ra cửa lò, củi khô ran cháy lên kêu lách tách. Anh không nói chuyện, cũng không nhìn tôi, chỉ một mực nhét củi vào trong bếp.
Trong phòng oi bức lạ kỳ, tôi tuột áo bào xuống hông, cột hai tay áo với nhau. Tôi nhìn Tashi cúi đầu chỉ lo đốt lửa, trán anh cũng rịn ra giọt mồ hôi lấm tấm. Thời tiết quỷ này, sao buổi tối còn nóng thế này?
Rút khăn tay ra muốn đưa cho anh, chẳng biết vì sao lại rụt về. Tôi vô ý thức cầm khăn lau lên, đông lau một chút, tây chùi một chút, yếu ớt làm yên lòng dạ cuồng loạn, mãi đến khi Rinchen bọn họ hì hì hà hà trở về, mới hít sâu một hơi, ép mình bình tĩnh lại.
Ăn cơm xong, cha chồng trò chuyện với Rinchen. Tôi muốn đi rửa bát, mẹ chồng ngăn tôi lại, nói mẹ rửa được rồi, bảo tôi đi tắm sớm.
Lúc tôi quay người đi lấy đồ, Tashi nói: “Mang cả đồ của anh nữa.” Làm tim tôi run run. Trời ạ, anh muốn cùng đi với tôi sao?
Theo nhau ra cổng. Trời đã tối hẳn, trăng hạ huyền cong cong treo ở chân trời, tỏa ra ánh bạc trong trong nhàn nhạt, những vì sao đông một ngôi tây một ngôi tản mát xung quanh, thần bí mà xa xôi.
Tôi hít sâu một hơi, thầm nhủ đừng nghĩ lung tung. Người ta chẳng phải là đi tắm sao? Tôi làm gì phải bảy lên tám xuống chẳng có chỗ dựa như vậy? Thế là, tựa như cầu xin giúp đỡ gọi một tiếng “Qiuzhu”, nó liền từ xa chạy bay đến, nhìn đồ tôi cầm trên tay, dẫn đầu chạy đằng trước.
“Qiuzhu chết tiệt, chạy nhanh như thế làm gì?” Tôi thầm thì một câu, nhanh bước đuổi theo.
Bước chân sau lưng trầm nặng mạnh mẽ, tiếng thở nặng nề nghe được rõ ràng. Vì sao anh không nói gì nhỉ? Đáng chết, dù nói một câu cũng được mà! Lòng tôi càng thêm hoảng loạn, sống lưng thẳng đơ, chân mềm nhũn. Tôi thường ngày không phải thế này, tôi thích nói thích cười, chả bao giờ biết sợ là gì. Nhưng đêm nay, tôi thật sự hơi sợ người đàn ông sau lưng. Cả người tôi nhủn ra, bước chân hỗn loạn, tim đập như đánh trống.
Sao lại như vậy nhỉ? Cảm giác này khiến tôi lạ lẫm, kỳ cục thay không làm chủ được bản thân. Mình không phải ốm rồi chứ? Tôi nhủ thầm trong bụng, đến mấy lần muốn quay người nhìn anh, nhưng lại không có gan dạ ấy.
Sau khi đi vào bụi cây, tia sáng đột nhiên mờ tối, tôi mơ mơ màng màng có chút nhìn không rõ đường.
Khoảnh khắc đó, tôi thậm chí muốn ném đồ trong tay, quay người chạy trốn!
Tôi sợ hãi ư? Tôi đang sợ hãi ư? Nghĩ người ấy cách mình chỉ một bước chân, vừa quay người đã có thể nhìn thấy anh, đã có thể chạm phải anh, tôi càng thêm hoảng loạn vô cùng, sải bước lung tung!
Khi tôi một lần nữa loạng choạng, sau lưng một cánh tay to khỏe ôm lấy eo tôi, cả người cứ thế mềm oặt.
Trong tích tắc anh chạm đến tôi, toàn thân tôi tức thì chẳng còn sức lực, mềm mại tựa trên người anh.
“Lá gan hồi chiều của em đi đâu rồi?” Anh siết chặt cánh tay, ôm tôi vào lòng. Cảm giác thật quen thuộc, thật ấm áp, thật mạnh mẽ! Tôi thở dài, dịu dàng gọi một tiếng “Tashi…” Người tôi bỗng nhiên bị lật qua, môi đã bị bờ môi ấm áp dày dặn phủ lên, không phát ra tiếng nữa.
Trăn trở!
Khoảnh khắc đó, trời đất không tồn tại nữa!
Thật lâu, thật lâu, mãi đến khi tôi nghẹt thở, mềm nhũn trong lòng anh, anh mới buông tôi ra. Một tay nâng đầu tôi, một tay ôm eo tôi, vẫn không nói chuyện, hơi thở phớt trên mặt tôi, ngưa ngứa. Anh chỉ chuyên chú ngắm tôi, ánh mắt dịu dàng muôn vàn, dường như có thể vắt ra nước. Đây không phải Tashi tôi quen thuộc, Tashi trước giờ không nhìn tôi với ánh mắt như thế. Tôi hơi bất an cục cựa, cảm giác dưới ánh mắt thế này có chút… ngượng ngùng? Không thể nào, tôi bao giờ ngượng ngùng chứ? Ngẩng đầu, thấy dưới ánh trăng, khuôn mặt Tashi từ từ đổi thành màu đỏ tía, từng sợi gân xanh trên cổ nổi lên. Tim tôi một lần nữa đập chẳng theo quy luật.
Tôi nhấc tay, vuốt ve mặt anh. Đây là một khuôn mặt thế nào? Lỗ chân lông thô lớn, làn da màu đồng cổ, sống mũi rất thẳng, mắt vừa tròn vừa sáng, dưới ánh trăng mông lung, vẫn có thể nhìn thấy rõ ràng bóng mình.
“Zhoigar, Zhoigar… Em là một ma nữ!” Trong cổ họng anh phát ra thanh âm nghèn nghẹn, bỗng lại hôn lên, đầu lưỡi nhẹ nhàng tách môi tôi ra, không hề kiêng dè khuấy động trong miệng tôi, sau đó quấn lấy tôi thật sát không buông ra nữa.
Tay anh bắt đầu dạo trên người tôi, phát ra tiếng rên như sói hoang. Thân thể tôi không nghe lời mềm nhũn, lồng ngực giống như có quả cầu lửa đang bùng cháy, ý thức cũng càng thêm mê loạn, hai tay cào cấu trước ngực anh, người cũng dán vào anh sâu hơn.
Lúc đó, đằng trước truyền đến mấy tiếng chó sủa, nghĩ chắc Qiuzhu chờ đến hết kiên nhẫn rồi.
Hai chúng tôi lúc này mới hơi tỉnh táo lại, vừa cúi đầu, thấy áo bào của anh bị tôi kéo xuống quá nửa, bộ ngực màu đồng cổ lộ hết ra dưới ánh trăng. Trời ạ, tôi thật sự xấu hổ cúi đầu, mình thế này là thế nào? Sao lại nôn nóng như một phụ nữ phóng đãng vậy?
“Lúc này lại xấu hổ rồi sao?” Anh xoa mặt tôi, trán cụng trán tôi, khóe mắt đượm nét cười. “Hồi chiều em không phải cứ dụ dỗ anh sao? Trước mặt người khác cũng to gan như thế, bây giờ chỉ có hai chúng ta, em lại không dám nữa?”
“Nói nhảm, em đâu có dụ dỗ anh?” Tôi không dám nhìn anh, cảm thấy mang tai đều đang nóng bừng.
“Không có ư? Thế em cắn tai anh là ý gì? Nói em ngày ngày đều nhớ anh là ý gì?” Anh cười, mắt híp thành một khe.
“Em… Em nói đùa với anh mà.” Tôi cúi gằm mặt, lúng búng.
“Thế thì bây giờ anh cho em biết, anh nhớ em, ngày ngày nhớ, giờ giờ đều nhớ Zhoigar của anh!” Anh ôm tôi càng chặt, tựa cằm trên đầu tôi.
Tôi chỉ dựa mình sát vào anh hơn.
Tashi ẵm tôi lên, sải bước đi xuyên trong rừng cây bụi. Cánh tay tôi treo trên cổ anh, nhìn dái tai đỏ gay của anh, không nhịn được lại ngậm vào miệng mút, mềm mềm hơi giống cảm giác hồi nhỏ mút ngón tay, bất giác ha ha cười thành tiếng. Cúi bên tai anh dịu dàng nói: “Em thích dái tai của anh!” Sau đó cảm thấy anh toàn thân cơ bắp dần dần căng cứng, cổ từ từ đỏ hết, càng thêm vui vẻ.
“Ma nữ em!” Tashi ẵm tôi, gần như chạy băng băng xuyên ra rừng bụi. Qiuzhu nhìn thấy chúng tôi cuối cùng đã ra, rất cao hứng, chạy nhảy lúc trước lúc sau!
Bên tai tôi truyền đến tiếng nước chảy róc rách, lúc sắp chạm đến khói sương bảng lảng khắp hồ, anh đột nhiên dừng bước, ôm tôi cùng lăn xuống trên bãi cỏ, nhanh chóng trút bỏ áo bào, mạnh mẽ che phủ xuống, loáng cái đã lột sạch tôi, sau đó vừa hôn, vừa cắn, vừa nỉ non loạn xạ trên mặt, trên cổ tôi, hai tay không ngừng xoa nắn trên người tôi. Cổ họng phát ra tiếng rên như sói tru. “Zhoigar, Zhoigar, ma nữ của anh. Đến đi, cho anh đi, đem em cho anh đi…” Không có chút cảm giác thương tiếc, một kiểu cuồng loạn giận không thể nuốt chửng tôi trong chớp mắt đã đốt cháy tôi. Thân thể tôi nóng bỏng, ý thức mơ hồ, hai cánh tay không tự giác quấn lấy cổ anh, dâng mình càng sâu về phía anh, tình cảm thôi thúc từ sâu trong cổ họng phát ra tiếng gọi như bồ câu hoang. “Người đàn ông của em, anh là người đàn ông của em...”
“Anh là người đàn ông của em, suốt đời này. Zhoigar, Zhoigar, Zhoigar của anh...” Trong tiếng gọi của tôi, Tashi càn quét khắp người tôi. Chúng tôi đã không thể chú ý đến Qiuzhu bên cạnh, càng không thể chú ý đến nơi này là ngoài trời. Đó là một dục vọng mạnh mẽ vô cùng, chúng tôi đôi bên khao khát đối phương, ý thức đang lung lay, mặt đất đang lung lay, bầu trời đang lung lay, trong khoảnh khắc đất rung núi lắc đó, chúng tôi cùng cảm nhận được một niềm khoái lạc như trời long đất lở.
Thật lâu, thật lâu...
Tashi ẵm tôi lên, đi vào suối nước nóng, anh đặt tôi trên đầu gối, tỉ mỉ giúp tôi tắm gội, từng tấc từng tấc. Ban đầu dùng tay, kế tiếp dùng môi, rồi sau đó dùng lưỡi. Mãi đến khi dục vọng nơi đáy lòng tôi lại bùng cháy, không chút băn khoăn lại quấn lên người anh, lại cắn nhẹ dái tai anh, lại từ nơi sâu trong cổ họng phát ra tiếng nỉ non như chim câu hoang, “Người đàn ông của em, anh là người đàn ông của em...”
Anh đặt tôi bên hồ, ánh mắt cuồng loạn bắn quét trên người tôi, bất chấp tất cả, lại muốn tôi như gió cuốn mây tàn. Dưới ánh trăng, trong bầu trời sao, trong mảng rừng rậm nguyên thủy mê ly này. Hai chúng tôi ở bên suối nước nóng mù mịt hơi nước, đôi bên quấn quýt, đôi bên đòi lấy. Anh lần nữa khẽ gầm như sói: “Anh là người đàn ông của em, suốt đời này. Zhoigar, Zhoigar, Zhoigar của anh...”
Thế là, gió đã ngừng; thế là, mây đã tạnh.
Mặt đất lại khôi phục yên tĩnh.
Tôi nằm trong lòng anh, tùy ý chà xát cánh tay anh, hưởng thụ khoảnh khắc tĩnh mịch này. Không biết làm sao, anh lại phát ra tiếng bị đau xuýt xoa, tôi hơi ngạc nhiên. Ngẩng đầu nhìn, cánh tay anh có một đốm xanh tím rất lớn. Trong chớp mắt liền nóng đỏ cả mặt, nghĩ đến không lẽ là lúc nãy… không lẽ là kiệt tác của tôi? Trời ạ, tôi man dại thế sao…
“Lúc rập đầu lạy ở phố Barkhor không cẩn thận bị té.” Anh thấy tôi nheo mắt ngó anh, không để tôi hỏi, liền vội vàng giải thích, giọng điệu gấp gáp ngược lại khiến tôi sinh nghi.
“Ơ, cái đó, không phải là vừa rồi… ơ… cái gì đó sao?” Tôi vùi đầu trước ngực anh, ngón tay vẽ loạn xạ trên ngực anh, lắp ba lắp bắp hỏi.
“Hà, đương nhiên không phải là em.” Sau khi anh hiểu rõ, cười ha hả, tiếng cười hào khí mà sảng khoái vang vọng giữa rừng núi. Sau đó cúi đầu nhìn mặt tôi, bỗng thơm một cái trên môi tôi. Nói: “Tuy nhiên, em vừa rồi cũng quả thật khá man dại đó!”
“Xùy, anh xấu xa này!” Nhìn bộ dạng gian manh của anh, nỗi áy náy nên có lập tức quét sạch, vốc nước lên tưới đầy đầu đầy mặt anh, vết thương xanh tím kia cũng lập tức vứt ra sau gáy, ra sức véo trên ngực anh, đau đến nỗi anh cứ nghiến răng.
“Em là ả ma nữ!” Anh cắn một cái trên cổ tôi, vừa không để tôi cảm thấy đau vừa khiến tôi vùng vẫy không thoát.
“Chính thế, sao nào? Anh không thích à?” Khó thấy được mặt đa tình của Tashi, ngược lại khiến tôi cảm thấy hết sức mới mẻ, cố ý chọc anh.
“Thích thích, thích chết đi được. Ma nữ em đây!” Anh buông tôi ra, tựa đầu trên vai tôi. “Lần này đi Lhasa lạy Phật, một vị Phật sống già ở tu viện Sera nói với anh, em và anh kiếp trước đã kết duyên, kiếp này đến hoàn thành. Zhoigar, mỗi một ngày ở bên ngoài, anh đều nhớ em, thật đấy. Anh không quan tâm anh em khác thế nào, anh sẽ trước sau như một yêu em, mãi đến ngày anh chết!”
“Tashi, anh làm sao thế? Nói những lời này?” Tôi giật mình. Giọng điệu nghiêm túc thế này, giống như có chuyện gì sắp xảy ra vậy. “Anh đừng dọa em, chúng ta chẳng phải đang tốt lành hay sao? Anh xem, Namgyal cũng gia nhập chúng ta rồi, nay mai chúng ta hết lòng cố gắng, ngày tháng nhất định sẽ trải qua tốt hơn người khác.”
“Không có gì.” Anh thu hồi ánh mắt, lại chăm chú nhìn tôi. “Anh chỉ muốn em ghi nhớ, anh yêu em, bất kể dưới tình huống nào, anh đều yêu ma nữ em đây.” Ánh mắt anh bắt đầu xem xét khắp trước ngực tôi, dần dần bắt đầu trở nên cháy bỏng, tay lại bắt đầu không quy củ.
“Ê ê ê, anh đừng nghĩ bậy nha.” Vừa nhìn thấy ánh mắt muốn ăn thịt tôi của anh, cả người đã bắt đầu nhủn ra. Tôi vụt đứng dậy, muốn chạy lên trên bờ, nhưng bị anh kéo về trong lòng. Còn chưa kinh hô ra tiếng, miệng đã bị nụ hôn cuồng nhiệt của anh bịt chặt.
“Ôi… Ôi…” Tôi than thầm, phó mặc người và lòng mình cùng chìm đắm.
Phong cảnh đêm nay thật là tươi đẹp vô cùng!
Chúc mừng được mùa, cảm ơn thần linh là trình tự nhất định không thể thiếu. Tôi sớm đã chuẩn bị sẵn cành bách và cành đỗ quyên, những thực vật có mùi thơm này đốt lên luôn tràn trề hương thơm. Tôi thích mùi cỏ cây, trong lành, ngửi xong vui tươi thanh thản. Lúc nhỏ bà nội bảo tôi là kẻ kỳ quái, không giống người khác. Cô gái khác đều thích mùi son thơm phấn thơm, nhưng tôi lại chỉ thích hoa cỏ, thậm chí mùi cỏ xanh tôi đều cực thích.
Ôi-tang (weisang) là hoạt động lúc sáng sớm. Khi trời vừa rạng sáng, mặt trời còn chưa lên, tôi và Tashi đã thức dậy, anh vác cành liễu, tôi cõng đồ dùng ôi-tang, hai người theo nhau ra cửa. Hai chúng tôi vẫn không biết mắt Namgyal ở bên cửa sổ cứ nhìn chúng tôi. (Ôi-tang: nghi thức tế các thần trời đất của người Tạng, đốt cành tùng cành bách cho khói bốc lên. “Tang (sang)” tiếng Tạng nghĩa là rửa sạch, tiêu trừ, đuổi đi).
Làng xóm rất yên tĩnh, chỉ có hai ba nhà sáng đèn, có thể đang chuẩn bị dậy sớm. Tôi rùng mình vì lạnh, không có ánh nắng, không khí hơi buốt giá. Tashi từ trong người móc ra một chiếc khăn lụa thật lớn choàng lên cổ tôi, nói: “Mua cho em đấy!” Sau một đêm triền miên, anh lại khôi phục Tashi lành như gỗ và thẹn thùng kia.
Nhìn anh tay chân vụng về buộc khăn lụa, trong lòng ấm áp. Lần này anh từ Lhasa trở về, đã thay đổi rất nhiều, đối với tôi càng thêm săn sóc, cũng trở nên cần cù hơn.
“Đi thôi!” anh xách luôn cành đỗ quyên trên tay tôi, quẳng hết lên lưng, nói.
Ôi-tang, chúng tôi gọi là “Lạp-tang (lasang)”, ý là hun khói cho thần linh, cùng một đạo lý với người nội địa thắp nhang trước Phật. Tập tục này từ xưa đã có, xuyên suốt sông dài lịch sử của chúng tôi. Ở đầu cầu, cửa núi, đường đi kora, trong tự viện, thậm chí trên nóc nhà mỗi nhà mỗi hộ, đều có lò hương chuyên dùng ôi-tang. Mỗi sáng sớm, chúng tôi đều niệm chân ngôn sáu chữ, đốt cành thơm, lại rắc lên tsampa, rượu thanh khoa, nước trà, ngắm những làn khói xanh dâng lên trong lò hương, mang cầu khấn của một ngày vào giữa phiêu diêu hư vô. (Chân ngôn sáu chữ: Om Mani Padme Hum)
Ngày thường chỉ đốt lò hương của mình, chỉ có ngày lễ, chúng tôi mới ôi-tang ở chỗ chuyên dùng ôi-tang trên núi. Khi những làn khói xanh bay lên, nghĩa là hoạt động ăn mừng long trọng chính thức mở màn.
Chỗ lò hương không có người, chúng tôi là nhà đầu tiên đến. Tashi để đồ xuống, bắt đầu quét dọn xung quanh lò hương, anh nhổ hết cỏ tạp, thu thập cành thơm chưa cháy hết, lại xếp cành thơm chúng tôi đem đến thành từng tầng từng tầng. Tôi lấy ra bình rượu thanh khoa, rót đầy một ly, hai tay bưng lên. Anh đón lấy uống cạn, hỏi tôi: “Bây giờ đốt hay đợi một lát?”
“Đốt đi, đốt lên cũng ấm áp một chút!” Tôi đón lấy ly rượu không, rót sẵn đặt sang một bên, quay người đứng cạnh anh.
Trên núi gió lớn, bật lửa thắp mấy lần mới bén, ngọn lửa bé tí, chúng tôi cẩn thận che chắn, thỉnh thoảng thêm chút cành khô nhỏ mảnh, lửa mượn thế gió, dần dần mạnh lên. Tashi xách bình rượu thanh khoa, rắc rượu lên trên, lửa sáng tắt rụi, khói bắt đầu lượn lờ bay lên. Tôi cầm túi đựng tsampa, múc một muổng nhỏ rắc vào trong lò hương. Thế là, trong không khí liền dậy lên mùi khói ôi-tang.
Tôi niệm chân ngôn sáu chữ, chầm chậm đi quanh lò hương theo chiều kim đồng hồ, Tashi thì cắm kinh phướn bên vách núi. Kinh phướn năm ngoái qua một mùa gió mưa, đã tỏ ra cũ kỹ, không còn rực rỡ như trước, kinh văn chép ở trên lại vẫn rõ ràng, theo gió tung bay. Trên cành liễu tươi mới, buộc kinh phướn thuộc về mùa này, năm màu, rực rỡ chói mắt, gửi gắm toàn bộ hy vọng của cả nhà chúng tôi: lục súc hưng vượng, người nhà an khang. (Năm màu của kinh phướn là Lam-Trắng-Đỏ-Lục-Vàng, tượng trưng cho 5 thành tố cơ bản của vũ trụ: Trời-Mây-Lửa-Nước-Đất. Lục súc: chỉ sáu loại súc vật nuôi trong nhà là lợn, bò, cừu, ngựa, gà, chó.)
Chúng tôi làm xong tất cả công việc, trời cũng đã sáng. Tôi ngồi bên lò hương, thẫn thờ ngắm làn khói vấn vít bay lên. Lúc này năm ngoái, tôi còn nằm trong bếp nhà mẹ, mơ mơ màng màng nghe tiếng mẹ bận rộn, việc lên núi ôi-tang đều là cha dẫn các anh hoàn thành. Mà năm nay, tôi đã trở thành bà chủ gia đình, cùng người đàn ông của mình bận việc ôi-tang. Chuyện đời biến đổi không khỏi hơi quá nhanh!
“Nghĩ gì thế?” Tashi ngồi xuống bên tôi, khép chặt vạt áo cho tôi.
“Không biết cha mẹ thế nào rồi?” Tôi đột nhiên hơi thương cảm. Từ khi gả chồng đến nay, vẫn chưa về nhà mẹ, họ cũng không đến thăm tôi. Hẳn nên về thăm rồi? Hẳn sớm đã nên về thăm rồi? Người thân của tôi phải chăng đều an khang?
“Ở Lhasa, anh nhờ Rinchen đi hỏi người cùng quê em, họ nói cha mẹ rất tốt, anh trai chị dâu cũng rất tốt, hình như chị dâu em lại sắp sinh em bé!”
“Chị dâu lại sắp sinh ư?” Tôi tựa trên vai Tashi, tiếp tục ngắm làn khói quanh quẩn bay lên. “Thời gian qua thật nhanh, chị dâu lại sắp làm mẹ rồi, không biết lần này sinh con trai hay con gái.”
“Xin lỗi, Zhoigar, tụi anh có lỗi với em!” Tashi cúi đầu, nói nghèn nghẹn.
“Nói gì vậy?” Tôi nhịn không để nước mắt rơi xuống. “Cái gì có lỗi không có lỗi chứ? Chúng mình hiện nay rất tốt mà, anh xem, Gyatso thông minh, anh giỏi việc, Namgyal cũng trưởng thành rồi. Cuộc sống của chúng mình nhất định sẽ càng ngày càng tốt!”
“Anh không phải nói chuyện này, anh nói Gyatso, anh ấy không về, là vì…”
“Chúng ta đừng nói anh ấy nữa!” Tôi ngẩng đầu, “Em biết anh ấy rất bận, không sao, Tashi, hiện giờ chẳng phải có anh bầu bạn em ư? Còn có Namgyal, thế này cũng rất tốt!”
Tashi ôm tôi, để tôi tựa trước ngực anh. Chúng tôi cứ dựa như thế, mãi một hồi không nói chuyện. Sau đó, Tashi bứt một cọng cỏ cắn, thờ ơ nói: “Lúc này sang năm, hẳn em cũng nên làm mẹ rồi, anh cũng nên làm chú rồi?”
“Tashi, anh không để tâm chứ? Con chúng mình không thể gọi anh là cha?” Tôi vô ý thức sờ bụng mình, ở đó đã có biến hóa, song biến hóa này chỉ có bản thân tôi biết, là bí mật của một mình tôi. Tôi chưa nói với ai, tôi đang đợi, đang đợi người đàn ông có thể cùng tôi chia sẻ bí mật này trở về.
“Không để tâm.” Tashi nhổ cọng cỏ trong miệng, nói: “Bé là con chúng mình, thuộc về gia đình này của chúng mình. Quan trọng nhất, bé là con em sinh, mà em là người phụ nữ của anh, điều này đã đủ rồi. Anh là chú, thân phận sinh ra đã định sẵn. Chú thì chú vậy, có gì quan trọng đâu, anh sẽ nuôi dưỡng chúng trưởng thành, để chúng đi học, có thể học đến lúc nào thì học đến lúc ấy, không nên giống như anh, chưa học hết lớp hai đã về nhà!”
Tôi biết, không thể học hành đàng hoàng là nuối tiếc lớn nhất trong lòng Tashi. Vì nhà thiếu sức lao động, mà Tashi lại là người giỏi việc nhất trong anh em, lúc anh học đến lớp hai, cha chồng đã không cho anh đi học nữa, về nhà giúp cha mẹ làm việc. Tashi nói lúc đó mỗi ngày nhìn anh trai em trai đeo cặp sách ra cửa, anh đều buồn bã vô cùng. Nhưng tình hình trong nhà lại quả thật không cho phép anh vào trường học, nhà cần người chăn thả, cần người nhặt phân bò, cần người lên núi đốn củi…
“Tashi, anh biết không? Anh rất vất vả, vất vả hơn Namgyal và Gyatso, nhà này toàn nhờ anh chống đỡ, em thật sự cảm ơn anh!” Tôi nắm tay anh, chân thành nói.
“Đều là vì gia đình này. Họ có công việc của họ, anh chưa bao giờ so sánh với họ, công việc mỗi người sinh ra đều khác nhau. Đặc biệt là hiện tại, anh cảm thấy rất tốt, cha mẹ đã tìm cho tụi anh một cô gái tốt, em đến nhà tụi anh, anh vui mừng tự đáy lòng. Lần đầu tiên nhìn thấy em anh đã thích em rồi, còn nhớ không? Buổi trưa hôm đám cưới, anh bê trà vào, em không đội khăn trùm đầu, trên mặt còn ngấn lệ. Đó là lần đầu tiên anh nhìn thấy em, mãi mãi không quên được. Sau khi bước ra anh thầm nhủ, cô gái này quá xinh đẹp, tụi anh nhất định kiếp trước đã tích không ít đức, kiếp này mới có thể cưới cô gái xinh đẹp thế này.” Anh vươn tay ra, vòng quanh eo tôi, để tôi tựa thoải mái hơn. “Em còn giỏi việc như thế. Người già trong làng đều nói, em là cô con dâu rất tốt, việc gì cũng biết làm, không giống các cô chăn bò yak nhà họ, ngoài chăn thả, việc gì cũng làm không xong. Có em, anh rất thỏa mãn.”
“Cảm ơn anh, Tashi!” Tôi tựa càng sát vào anh. Trong lòng tôi hiểu rõ, suốt đời này có anh bầu bạn, tôi không đến nỗi quá vất vả.
Ngày thứ hai Tashi trở về, Namgyal đã trở nên kỳ lạ khác thường, cả Tashi nói chuyện với anh cũng không thèm để ý, cũng không giúp làm việc nữa. Có lúc tôi bảo anh làm việc gì đó, anh còn nói: “Bảo Tashi của em đi!” Sau đó trợn mắt quay người bỏ đi.
Một hai lần đầu tôi còn cho rằng Tashi đã chọc giận anh, không xem là chuyện to tát. Nhưng tiếp theo đến mấy lần đều như vậy, lúc này mới cảm thấy có chút không ổn. Namgyal đang ghen, đang ghen Tashi. Tôi bắt đầu tự kiểm điểm, mình mấy ngày nay phải chăng có chút không công bằng? Vì Tashi từ Lhasa trở về, thời gian ở bên anh nhiều hơn, phải chăng hơi không chú ý tới cảm nhận của Namgyal? Giống vừa rồi, tôi và Tashi từ trên núi xuống, thấy Namgyal ở cửa sân, rõ ràng thấy anh đang ngóng lên núi, nhìn thấy Tashi nắm tay tôi đi xuống, ngược lại quay đầu bỏ đi.
Tôi có nghĩa vụ không thể để những người đàn ông của mình trong lòng nảy sinh cảm xúc thù địch lẫn nhau. Thù hận giữa anh em đối với gia đình dạng này của chúng tôi, là họa ngầm lớn nhất. Đàn ông chỉ có đoàn kết với nhau, mới chống đỡ nổi ngôi nhà lớn của gia đình này, khiến nó càng thêm vững chắc. Do đó, buổi chiều nhặt phân bò, tôi không để Tashi đi, mà gọi Namgyal. Nhìn thấy nỗi thất vọng trong mắt Tashi, tôi cũng hơi xót xa, thường ngày đều là anh cùng tôi lên núi. Tôi cũng rất vui lòng làm việc chung với anh, anh sẽ giúp tôi, không để tôi mệt.
Hôm nay không được, hôm nay tôi phải tháo gỡ nút thắt trong lòng Namgyal, nếu không để anh nghĩ bậy bạ tiếp, đối với tôi, đối với gia đình này đều chẳng có lợi ích gì. Đều là đàn ông của tôi, tôi không thể coi nhẹ bất cứ một ai. Tôi biết Tashi nín nhịn, trong lòng anh dù khó chịu đến đâu, đều để trong lòng, âm thầm ủng hộ tôi.
Đối với Namgyal, nhiều lúc tôi giống chị gái, chứ không giống người phụ nữ của anh. Tôi không cần quanh co, dứt khoát thẳng thừng hỏi anh: “Chuyện gì thế? Anh điên rồi à? Cả ngày kiếm chuyện phiền phức?” Khi chúng tôi lên đến đỉnh núi, nơi không nhìn thấy bóng người nữa, tôi ngồi phệt trên bãi cỏ.
“Trong lòng em chỉ có Tashi, đâu có anh nữa?” Namgyal cũng ngồi xuống, vứt cái kẹp gắp phân ra thật xa, giống đứa bé không đòi được kẹo dẩu môi, nằm giang tay giang chân trên đất.
“Anh ấy đi lâu như thế mới về, em không thể bầu bạn người ta thêm à. Anh không nói đạo lý.” Tôi nhặt đá đập anh một cái.
“Anh chính là trong lòng không thoải mái, em và anh ấy ở bên nhau, căn bản không ngó ngàng đến anh.”
“Mỗi người một đêm, chẳng lẽ thiếu phần anh sao?”
“Thế còn ban ngày? Các người lúc nào cũng ở bên nhau, anh tính là gì?” Namgyal nghiêng đầu sang một bên, xem ra vẫn giận thật rồi.
“Được được được, là em không tốt, được chưa? Hiện giờ chẳng phải ở bên anh hay sao?” Tôi sán đến, dùng tay vẽ trên mặt anh. “Đừng giận nữa được không? Tashi cũng chả dễ dàng gì, cả ngày từ sáng đến tối bận vào bận ra, xem xem anh và Gyatso, ai có việc của người nấy, căn bản không giúp được em!”
“Anh không giận anh ấy, chính là trong lòng không thoải mái!” Tôi vừa nói như thế, anh rốt cuộc cũng quay đầu lại. Trên mặt tuy vẫn còn phụng phịu, nhưng trong mắt đã không còn ý giận.
“Được rồi mà, thế này mới phải.” Tôi gối đầu trên vai trái của anh, thân mật nói, “Anh và Tashi không giống nhau, anh hoạt bát hơn Tashi, thích nói thích cười, em cũng thích ở chung với anh. Các anh mỗi người có điểm tốt của mình! Anh ấy mới về đến, có thể em chú ý anh ấy nhiều một chút, lập tức sửa ngay. Tối nay bầu bạn anh thật tốt, được không? Đừng giận nữa! Anh không biết, thấy anh giận dỗi với tụi em, lòng em khó chịu biết chừng nào, Tashi cũng vậy, anh ấy nói với em nhất định phải quan tâm anh nhiều hơn, nói anh nhỏ hơn anh ấy, trước giờ chưa từng làm việc, sợ anh mệt, bảo em chỉ anh thêm đấy!”
“Anh hai thật sự nói như vậy?” Namgyal lén nhìn tôi, hơi hoài nghi.
“Đương nhiên, Tashi anh còn không rõ sao? Cứng nhắc một chút, không biết nói chuyện, bụng dạ lại tốt. Anh ấy rất quan tâm em trai anh đây, chỉ là anh không để ý người ta mà thôi!” Tôi bịa đại một câu chuyện nhăng cuội, chỉ cần có thể khiến anh em các anh không chia rẽ, nói dối mấy câu, Phật tổ nghĩ chắc cũng không trách tội.
“Ai nói anh không để ý?” Namgyal phản bác. “Tashi là người giỏi việc nhất trong mấy anh em tụi anh, anh ấy không đi học, về nhà làm việc, mấy đứa tụi anh mới được đi học. Anh biết ban đầu anh ấy hết sức muốn ở lại trường, nhưng nhà nhất định phải có người làm việc. Anh cả là gia trưởng, cha không để anh ấy thôi học, anh lúc đó còn nhỏ, việc gì cũng không biết làm, chỉ có thể là anh hai. Thật ra, anh hai vì mấy đứa tụi anh mới ở lại trong nhà.”
“Anh hiểu rõ thì tốt. Đừng nghĩ lung tung nữa nhé, mấy anh em các anh trong lòng em đều quan trọng như nhau, chúng mình đều phải nghĩ cho gia đình này!” Tôi nhắm mắt, hưởng thụ ánh nắng vỗ về.
Anh mãi một lúc không nói chuyện, tôi cũng chẳng ép anh, chuyện này phải để anh tự nghĩ rõ ràng, nếu không nay mai sẽ còn xảy ra. Cuối cùng, anh quay người qua, mặt trơ tráo cười, “Vậy đêm nay em phải bầu bạn anh thật tốt!”
Cuối cùng đã yên tâm, tôi gật đầu.
Thế nhưng, chuyện này ai dám bảo đảm sau này không xảy ra nữa? Nhớ đến ánh mắt buồn bã của Tashi lúc buổi trưa ra cửa, nghĩ chắc anh trong lòng cũng đang khó chịu? Anh chưa bao giờ hỏi tôi về chuyện Namgyal, chỉ là theo ước định tuân thủ quy củ nên có của gia đình anh em cùng vợ. Tuy nhiên, mỗi lần đến lượt Namgyal vào phòng tôi, luôn có thể cảm thấy sau lưng có một đôi mắt bất lực đang nhìn đăm đăm, ngoảnh đầu lại chẳng nhìn thấy gì cả.
Hôn nhân dạng này, đặt trong hoàn cảnh lớn, là tuân thủ truyền thống, mà cụ thể đến cá nhân, phải chăng là một kiểu tổn thương? Trái tim và thân thể của tôi, chu du trên mình ba người đàn ông, quanh quẩn, không dám dừng lại, cũng không cho phép mình dừng lại!
Buổi chiều từ một làng khác mời thầy cúng đến. Năm tới có mưa thuận gió hòa hay không, chính là xem cầu khấn năm nay của ông, chúng tôi tin điều này. Ở trong núi lớn miếng ăn dựa vào ông trời, tất cả biến hóa của giới tự nhiên đều nằm dưới sự khống chế của ông trời, con người không thể thay đổi. Do đó, lòng sùng bái và tín phục đối với trời cao đã bén rễ trong xương chúng tôi từ nhỏ. Kính trời kính đất kính quỷ thần đã trở thành một phần của sinh mệnh, tự nhiên như mặc áo ăn cơm vậy.
Thầy cúng ở trong văn phòng Ủy ban làng. Nghe cha chồng kể, thầy cúng là cha truyền con nối, tổ tiên nhà họ đã làm nghề này. Thời cách mạng văn hóa còn bị đánh thành “bốn cũ”, rất nhiều năm đã không xuất đầu lộ diện. Nhưng mấy năm gần đây, tôn giáo bắt đầu lại đi vào đời sống nhân dân, thầy cúng cũng tìm lại tôn nghiêm.
Trưởng làng thông báo các vị gia trưởng buổi chiều đến bãi đất của Ủy ban làng tập trung, ra ruộng đi vòng quanh dưới sự dẫn dắt của thầy cúng. Cha chồng không muốn đi, Gyatso lại vắng mặt, đương nhiên chỉ có Tashi đi. Thật ra ở tuổi cha chồng, con trai con gái đều đã khôn lớn nên người, để con trai cả thay mặt mình tham gia một số hoạt động quan trọng trong làng, đó là chuyện rất có thể diện, tiếc rằng Gyatso vắng mặt.
Ăn xong cơm trưa, cánh đàn ông mặc phổ-lỗ tốt nhất, đến Ủy ban làng. Họ bọc theo ly của mình, không mang rượu, rượu phải do vợ hoặc con họ theo sau đưa đến, đây cũng là một kiểu thể diện, là để nói với những người đàn ông khác, mình có vợ có con, ngày tháng trải qua rất vui vẻ.
Tôi cõng rượu, tươi cười chào hỏi mỗi người phụ nữ chạm mặt. Ngày này, phụ nữ đều trang điểm đặc biệt xinh đẹp, trên mặt thoa kem trân châu hiếm khi dùng đến, có người còn dán lên mặt ba miếng vải dính hình quả trám làm trang sức. Trang phục kiểu Tạng rực rỡ, dài chấm đất. Khi đi lại, eo uốn nhẹ, yểu điệu thướt tha, chẳng giống bà chủ gia đình hùng hùng hổ hổ ngày thường chút nào, nói chuyện cũng hạ thấp giọng, hết sức dịu dàng. Ngày lễ luôn khiến phụ nữ kiều mỵ hẳn lên.
Chỉ có vào những ngày thế này, chúng tôi mới có thể nhớ đến vẻ đẹp của mình, lại cố gắng tô vẽ nó, hoàn toàn phóng thích cái tôi đã lãng quên.
Ủy ban làng ở trong một sân nhà nhỏ. Ba căn phòng đất, xem là phòng bảo quản của Ủy ban làng, nhưng cũng quả thực chả có gì để bảo quản. Trong phòng có một chiếc bàn tồi tàn vừa chạm đến liền rung rinh, ngoài hai tấm ca-điểm rách nát trên băng ghế đắp bằng đất đá ra, trống trơn chẳng có đồ vật gì.
Ngày lễ Ongkar này, nhà nào nhà nấy đều phải tập trung đưa rượu thanh khoa đến Ủy ban làng. Trong làng đã chuẩn bị một chiếc thùng lớn đựng rượu dành riêng cho lễ Ongkar, rượu mỗi nhà đưa đến tập trung đựng vào trong thùng, chuyên dùng để uống trong ngày lễ Ongkar. Trong làng còn chọn ra sáu người đàn ông tổ chức thành nhóm nếm rượu. Họ phụ trách bình phẩm ưu khuyết điểm của rượu thanh khoa mỗi nhà, cuối cùng bình chọn một vị quán quân.
Nói đến rượu thanh khoa, tôi nhớ đến một loại rượu thanh khoa đóng hộp mà Lhasa sản xuất mấy năm gần đây, uống ngọt lịm, hơi giống vị rượu gạo của nội địa, thật ra mùi vị của rượu thanh khoa chính cống không phải như thế, hơi chua, hơi chát, dư vị đượm hương thơm thoang thoảng của thanh khoa. Đặc biệt là lượt rượu đầu, màu sắc trong sáng, vào miệng ngọt thuần!
Đem rượu của tất cả gia đình trong làng đựng chung với nhau, đến khi lễ Ongkar kết thúc, rượu trở nên đặc đặc, mùi vị vừa đắng vừa chát, màu sắc cũng biến đổi đục ngầu quá chừng. Rượu như thế tôi không thích uống, dễ say.
Cánh đàn ông ngồi quây quần với nhau, đã uống đến đỏ mặt tía tai. Thấy tôi bước đến, đồng loạt nhìn tôi chằm chằm, có người huýt sáo, có người cố ý kêu ré. Tôi không đếm xỉa đến họ, đặt hũ rượu bên người Tashi, chẳng nói chẳng rằng liền rời đi.
Trước cửa gian nhà nhỏ bên cạnh túm tụm một đám phụ nữ, tôi chen qua xem thử, hóa ra là thầy cúng đang niệm kinh, đầu lắc lư, còn thỉnh thoảng gõ cái trống bên cạnh một cái. Cụ thể niệm những gì, chúng tôi cũng không hiểu. Nhưng tiếng niệm kinh trầm bổng réo rắt ấy, đệm bởi tiếng trống, giống như ca hát, rất là vui tai. Từ nhỏ tôi đã thích nghe thanh âm như vậy, lúc nhỏ, bà nội dỗ tôi ngủ, không phải hát ru, mà là niệm kinh. Bà bảo tôi vừa nghe tiếng niệm kinh đã yên tĩnh, không khóc không quấy.
Những kinh văn này đối với đám người chúng tôi, cũng trúc trắc khó hiểu như thiên thư. Thế nhưng có sao đâu? Pháp khí kêu leng keng, kinh văn phân biệt không rõ âm tiết là một kiểu an ủi tâm linh của chúng tôi. Nghe thanh âm như mơ như màng đó, luôn có thể thoải mái tinh thần, như vậy đã đủ rồi.
Khi đi vòng quanh ruộng, các vị gia trưởng theo quy ước đều mặc phổ-lỗ màu trắng. Phổ-lỗ màu trắng là chất liệu cao cấp nhất trong phổ-lỗ. Từ khâu chọn lựa lông cừu ban đầu đến se sợi, dệt thành vải, đều cần đặc biệt cầu kỳ. Vì không dùng màu nhuộm, màu sắc trắng tuyền liếc qua thấy ngay, một chút tì vết đều rất rõ ràng. Chọn lông cừu trước tiên phải cùng một màu, không thể có chút khác biệt màu sắc, còn phải to nhỏ như nhau, ít nhất ba mươi con cừu mới có thể làm ra nguyên liệu của một chiếc áo. Se sợi cũng cực kỳ quan trọng, phải vừa mảnh vừa đều.
Ở chỗ chúng tôi có câu tục ngữ: “Đàn bà đảm đang hay không, nhìn đàn ông mặc gì là biết!” Câu này vẫn có mấy phần đạo lý. Hiện nay tuy quần áo khắp nơi đều có thể mua được, nhưng vào ngày lễ long trọng, chúng tôi vẫn phải mặc trang phục kiểu Tạng.
Tôi đứng trên mỏm núi nhìn xuống, trong đồng ruộng vàng óng dưới chân núi, cánh đàn ông đi thành một đường màu trắng ngoằn ngoèo. Trong tay mỗi người đều giơ cao một cây nhang, khói mù mịt. Đằng trước một người vác cây kinh phướn mới, màu sắc rực rỡ, nhảy nhót giữa núi.
Cánh đàn ông vừa đi, vừa phụ họa thầy cúng, tiếng hò hét vang không ngớt bên tai.
Đi hết một vòng, thời gian không dài lắm, đến khi về lại Ủy ban làng, trời vừa sẩm tối.
Sau khi kết thúc hoạt động cúng tế, cuộc vui hết mình mới thật sự bắt đầu, say rượu nhảy Sgor-Gzhas là chuyện rất vui vẻ!
Sgor-Gzhas là một điệu nhảy vòng tròn tay nắm tay, cũng có khi đứng thành một hàng hoặc đứng đối diện nhau. Lưu hành rộng rãi ở khu vực nông nghiệp chăn nuôi của Tây Tạng. Nam nữ tay nắm tay, không phân trường hợp, không phân thời gian, có thể một xướng một họa, cũng có thể cùng hát, với tiết tấu nhịp 2/4 hoặc nhịp 4/4, nhảy múa từ trái sang phải, khi trùng nhịp, đầu gối trở xuống dẫm mạnh xuống đất, bày tỏ tâm tình nồng nhiệt của người nhảy. Trong một bài hát, động tác vũ đạo không có biến hóa dư thừa, chỉ cần người nhảy bước chân mạnh mẽ, tiếng hát tề chỉnh lảnh lót là được. Vì động tác của một bài hát là cố định, nên rất dễ học. Thế nhưng, mỗi năm đều sẽ có bài hát và bước nhảy mới, chỉ cần họ nhảy bước nhảy mới, kẻ đứng bên phải người không biết nhảy sẽ xui xẻo, vì sẽ không ngừng bị đạp trúng chân. Tuy nhiên dù đạp trúng ai, họ đều sẽ không so đo, đương nhiên càng chẳng ai chê cười. Trong điệu nhảy tập thể này, bước nhảy thống nhất là quan trọng hàng đầu, ở giữa nếu có người ngừng lại, người đằng sau sẽ không nhảy được. Do đó dù không biết nhảy, cũng không thể đứng yên bất động, cứ bắt chước làm theo bộ dạng của người đằng trước.
Nhảy xong mỗi bài, mọi người đều sẽ ngừng lại nghỉ một lát, người không nhảy xung quanh liền bưng lên rượu thanh khoa, mỗi người kính một ly lớn. Dù ngày thường chẳng đụng đến giọt rượu nào, lúc này cũng sẽ cạn hết ly này đến ly khác không hề từ chối. Uống xong rượu, sẽ có người đề xuất bài tiếp theo nhảy điệu gì, đồng thời dẫn đầu, những người khác sẽ theo kịp tiết tấu. Đêm dần khuya, hiện trường bắt đầu trở nên cuồng dại, động tác của các chàng trai càng hào phóng sảng khoái, thân hình của các cô gái cũng uốn lượn càng mềm dẻo đẹp đẽ; có người nhảy một hồi bèn buông tay người hai bên ra, một mình theo tiết tấu nhảy vào chính giữa vòng tròn.
Nhảy Sgor-Gzhas là một phương thức giải trí mà chúng tôi rất thích, thậm chí có thể nói là một phương thức kết bạn của những người trẻ tuổi. Dù ngoài đồng ruộng hay trong sân nhà, lúc nào cũng có thể nhìn thấy người ta tay nắm tay vừa hát vừa nhảy, số người không cố định, có khi năm ba người, có khi hai ba mươi người. Khi trẻ em lên núi chăn thả, đuổi gia súc đến nơi quy định xong, các bé chăn bò xung quanh liền tìm một bãi cỏ, bất kể quen hay lạ, đều tụ tập với nhau, vừa uống rượu vừa nhảy múa. Bước nhảy Sgor-Gzhas tuy biến hóa không lớn, nội dung lời hát lại phong phú đa dạng: có phản ánh trạng thái cuộc sống thường ngày, cũng có ca tụng chùa miếu tôn giáo, còn có châm biếm một vài hiện tượng xã hội nào đó…
Có một điệu Sgor-Gzhas đến nay tôi vẫn không học được, nhưng không chỉ tôi không biết, những người trẻ tuổi khác trong làng cũng không biết, đó chính là điệu Sgor-Gzhas của chùa ni cô. Mỗi khi hoạt động đạt đến cao trào, các vị ni cô sẽ nhảy điệu Sgor-Gzhas này. Cũng giống như hiện giờ, nhảy xong một bài, những người khác đều đi tìm rượu uống, các ni cô tay nắm tay bắt đầu nhảy. Nói là Sgor-Gzhas, trên thực tế họ đã thêm vào rất nhiều động tác vũ đạo phức tạp trên cơ sở của Sgor-Gzhas, đặc biệt là biến hóa của tay, xem đến nỗi tôi hoa mắt. Chị đứng bên nói cho tôi biết, điệu Sgor-Gzhas này là họ ở trong chùa sau khi niệm kinh xong lợi dụng thời gian rảnh rỗi cùng nhau biên soạn, cần phải do mười vị ni cô phối hợp lẫn nhau mới có thể nhảy hết.
Vào đêm hội thế này không phân biệt người xuất gia và người tục gia, rượu thanh khoa đã trở thành chất xúc tác cho tình cảm mãnh liệt bộc phát, vui vẻ tràn trề trên gương mặt mỗi người. Lúc này, các gia trưởng say túy lúy cũng không nhịn nổi gia nhập vòng nhảy, dẫn đầu nhảy múa, lời ca và bước nhảy đều mang sắc thái ngẫu hứng rõ rệt, mà bước nhảy ngẫu hứng kiểu này khiến người đằng sau rất khó theo kịp, thế là liền có mấy cụ già rời khỏi vòng lớn, ở chính giữa quây lại thành một vòng nhỏ, các gia trưởng say sưa, động tác vũ đạo ngẫu hứng phát huy trọn vẹn tự nhiên. Những người trẻ tuổi vòng ngoài tay nắm tay, khi các gia trưởng nhảy một động tác có độ khó cao, sẽ theo nhịp nắm tay tiến lên, đồng thời dẫm chân xuống đất ứng họa. Lúc này, đám phụ nữ mời rượu lại hình thành một vòng ở ngoài cùng, họ theo điệu hát của các gia trưởng, một xướng một họa, kẻ lên người xuống, bọn trẻ con hưng phấn thì chui ra chui vào ở giữa ba vòng, đuổi nhau quậy phá.
Trong không khí tràn ngập mùi rượu thanh khoa nồng nàn, vòng Sgor-Gzhas càng lúc càng lớn, tiếng hát cũng càng lúc càng vang dội, khi bước chân dẫm đất bụi đất tung bay …
Khi chưa đám cưới, lễ Ongkar là ngày lễ mà tôi rất thích. Tôi lúc đó, sẽ trở thành trung tâm của ngày lễ, trở thành mục tiêu ngắm nghía của tất cả các chàng trai. Không chỉ vì tôi đẹp, còn vì tôi hát hay, tiếng hát của tôi luôn có thể khiến tất cả mọi người si mê; tôi nhảy đẹp, khi bước nhảy của tôi bay bổng, tất cả mọi người đều sẽ ngất ngây. Nhưng lễ Ongkar năm nay, tôi rất ít cất tiếng hát, rất ít mặc ý phát huy bước nhảy. Không phải không muốn, mà là không có hứng thú.
Khoảng thời gian này, ở đầu bờ ruộng luôn có thể nhìn thấy các cô gái chàng trai tụ tập nghiên cứu bước nhảy mới và bài hát mới. Thấy tôi đi qua, họ mời tôi tham gia, nhưng tôi luôn tránh đi, không một ngoại lệ. Trời đất như thế là thuộc về những người trẻ tuổi, thuộc về những người đang yêu. Tôi dường như đã không còn trẻ trung nữa, dường như đã già rồi, một người già chưa đến hai mươi tuổi, ai tin chứ? Nhưng tôi quả thật đã già. Nhìn thấy những nam nữ kia nắm tay, len lén tránh né người khác, chui vào trong rừng cây, cảm giác sao mà buồn cười. Cách đây không lâu, tôi cũng từng có những ngày như vậy, đó là chuyện trước đây bao lâu? Mười năm, hai mươi năm, hay là… kiếp trước?
Cơ thể tôi ngày càng không thoải mái, biến hóa rõ rệt của bụng dưới vừa khiến tôi vui mừng, vừa khiến tôi đau buồn. Đứa con đến quá sớm này, vào lúc tôi còn chưa chuẩn bị sẵn sàng, đã đột nhiên đến. Tôi chẳng nói cho ai biết, che giấu nó thật sâu trong lòng. Mỗi đêm, tôi đón nhận xung kích của Tashi và Namgyal, có lúc sẽ theo phản ứng bản năng bảo vệ bụng dưới. Tôi không biết đứa con là của người chồng nào, tôi cũng không để tâm điều này. Không chỉ tôi như thế, dù là Tashi hay Namgyal cũng sẽ không để tâm. Họ là chú, thân phận từ khi sinh ra đã định sẵn. Còn Gyatso? Anh có để tâm không? Nghĩ chắc là có. Tôi nhớ rõ ánh mắt anh nhìn tôi đêm ấy, dục vọng độc chiếm trần trụi hiện ra trong mắt anh.
Chiều nay, giống như tất cả những buổi chiều khác, tôi lảng tránh mấy đám người vui vẻ kia, đơn độc một mình đi xuyên trong rừng rậm, muốn tìm ít nấm ăn được. Gần đây vị giác thay đổi đặc biệt, luôn muốn ăn các thứ hiếm lạ kỳ quái. Hai ngày nay như phát điên muốn ăn nấm dại, liền lên núi tìm. May thay, nơi chúng tôi sống không có rau quả do nhà kính hiện đại hóa trồng ra, những thứ sinh trưởng tự nhiên ăn được lại khá nhiều, mùi vị cũng ngon. Trong rừng núi, giữa thảm lá rụng, khắp nơi đều là nấm đủ loại. Tôi chưa mất đến nửa tiếng, đã nhặt được một đống lớn nấm tùng nhung. Nghe nói, nấm tùng nhung là vị thuốc hay chống ung thư, mỗi năm chúng tôi nhặt để bán cho người Hán, họ lại đem bán cho những người khác.
Tôi không có ung thư trên thân thể, nhưng trong tâm linh lại có: Tế bào của khối u ấy chính là Gyatso! Anh là người đàn ông duy nhất khiến tôi rơi lệ, cũng khiến tôi bận tâm. Không cố ý nghĩ đến anh, điều đó sẽ khiến tôi khó chịu rất lâu. Nhưng thường thường, trong lòng sẽ bất giác hiện lên bóng dáng của anh.
Tôi đi khắp nơi trong rừng, tiêu hao thời gian. Đến cuối cùng thay vì nói là nhặt nấm, chi bằng nói là trốn tránh về nhà sẽ trực tiếp hơn. Tôi không muốn về nhà, không muốn đối mặt với ánh mắt buồn bã của Tashi, không muốn đối mặt với dục vọng trần trụi của Namgyal.
Ongkar Ongkar (Vọng Quả Vọng Quả), kết quả tôi hy vọng ở đâu?
Tôi tìm một cái hố kín đáo, ôm lá thông xung quanh đến trải lên. Một lớp mềm mại, rất dễ chịu. Tôi cởi phổ-lỗ, chân trần bước vào, nằm trên lá thông mềm mại như bông, trên đầu rắc xuống ánh nắng loang lổ rực rỡ.
Một không gian nhỏ rất tĩnh mịch, cũng rất yên ổn.
“Đừng nghĩ đến anh ấy nữa, anh sẽ đối xử tốt với em!” “Zhoigar, em là nữ thần của anh, mãi mãi tôn thờ trong lòng anh!” Đây là lời Tashi nói với tôi đêm qua. Tashi, người đàn ông trong thô kệch có tinh tế. Anh khác với Namgyal, cũng khác với Gyatso, dù ban ngày hay ban đêm, anh đều cẩn thận nghiêm túc nâng niu tôi, lấy niềm vui của tôi làm niềm vui. Namgyal và Gyatso thì không, họ chỉ không ngừng đòi hỏi, chỉ lo thỏa mãn dục vọng của mình.
Tôi sờ bụng mình, ở đó đã có sinh mệnh, một sinh mệnh dùng máu thịt của tôi nuôi dưỡng nên. Nó sẽ giống ai, Gyatso hay Tashi? Đương nhiên sẽ không phải là Namgyal, vì khi Namgyal đi vào cơ thể tôi, nó đã ở đó rồi. Thế nhưng, tôi vẫn không dám bảo đảm bản thể của sinh mệnh này đến từ người đàn ông nào của tôi. Dù hai người đàn ông ấy đều không để tâm chuyện này, nhưng tôi muốn biết, những người đàn ông trong sinh mệnh của tôi, là ai đầu tiên sinh rễ nảy mầm trong thân thể tôi, tiếp đó nở hoa kết quả!
Tôi híp mắt, từ từ cởi thắt lưng, để mình lõa thể giữa bóng cây chập chờn. Có thể nhìn thấy trên làn da trắng muốt như ngọc có mấy mảng bóng râm mà ánh nắng để lại. Ngắm mấy mảng bóng râm này, đột nhiên nhớ đến vết bầm trên người vào đêm mới cưới, rất giống, chẳng phải sao? Sự cuồng dại của đêm đó hiện nay nhớ lại trong lòng vẫn từng cơn run rẩy.
“Yến Tử…” Tôi đọc hai chữ tiếng Hán không rõ là gì ấy. Đó sẽ là gì nhỉ?
Đột nhiên, chẳng có lý do, tôi rơi lệ. Nước mắt càng lúc càng nhiều, ngăn cũng ngăn không nổi! Tôi bắt đầu nhớ nhà, nhớ mái nhà tôi sinh sống từ nhỏ. Nếu ở nhà, mẹ biết tôi mang thai, sẽ kinh ngạc vui mừng thế nào? Đứa con gái duy nhất của mẹ sắp làm mẹ, mẹ sẽ lên chức làm bà, bà nội sẽ lên chức làm bà cố, đó sẽ là quá trình lột xác hạnh phúc nhất của một người phụ nữ: con gái – vợ – mẹ – bà – bà cố.
Thấy ngày về nhà mẹ càng lúc càng gần, lòng tôi càng lúc càng trống trải, tay chân luống cuống không biết làm sao đối diện cái ngày ấy. Tôi muốn về nhà, nôn nóng muốn gặp được cha mẹ, nhưng tôi lại e sợ, e sợ họ hỏi han, dù là không nói ra, chỉ ánh mắt mang dấu hỏi ấy tôi đã không chịu nổi. Con gái lần đầu về nhà mẹ, người đi cùng bên mình không phải là gia trưởng, mà là em chồng, nỗi ngượng ngập này, tôi và người nhà đều sẽ không thể chịu đựng.
Lo buồn của tôi ngày càng tăng, đau buồn của Tashi cũng ngày càng tăng. Anh đang lo lắng ư? Ánh mắt mỗi lần nhìn tôi, sao mà u uất, không giống Namgyal. Namgyal sẽ không suy nghĩ những điều này, anh vẫn chỉ là đứa trẻ chưa khôn lớn, tất cả mọi chuyện, đều chỉ nhằm tìm vui không ngừng không nghỉ đêm đêm.
Cha mẹ chồng hẳn cũng đang lo lắng? Đến mấy lần, tôi đều nghe thấy hai cụ đang khe khẽ bàn bạc gì đó, loáng thoáng nhắc đến mấy chữ “Lhasa”, “Gyatso”. Sau mỗi lần bàn bạc, đều nhìn thấy vẻ mặt buồn bã của cha mẹ chồng. Dường như đó là đề tài nói chuyện rất khiến họ khó xử.
Rinchen sắp ra về rồi. Cha chồng xay hai túi tsampa để anh mang đi, một túi tặng cho gia đình anh, một túi khác nhờ anh mang cho cha mẹ tôi.
Đêm trước khi đi, hai chúng tôi ngồi trên bãi cỏ trước cửa trò chuyện.
“Zhoigar, em đến dự lễ cưới của anh nhé, đi cùng Tashi, anh đã mời anh ấy.”
“Cảm ơn anh, Rinchen, em biết ý anh, cảm ơn anh đã thông cảm!” Lễ cưới của Rinchen đã định vào lễ Ongkar của làng họ. Ở đây nhiều ngày như thế, xem ra anh đã hiểu được nỗi khó xử hiện nay của tôi, do đó không hề hỏi tôi lễ Ongkar có về hay không. Hiện giờ anh nói muốn tôi và Tashi đi dự đám cưới của anh, thật ra chính là mượn đám cưới của anh để cho tôi một cơ hội danh chính ngôn thuận về nhà mẹ. Cô gái đã gả chồng không thể trở về một mình, cũng không thể để em chồng cùng về. Nếu Tashi nhận lời mời đến dự lễ cưới của anh thì lại khác, họ là bạn học, nhân dịp ăn cưới, thuận đường cùng tôi về nhà mẹ là chuyện nói xuôi tai trót lọt. Quanh co như thế mong giữ được thể diện, cũng thật là đã làm khó cho anh.
“Đừng quá để tâm nữa. Nói cho cùng Tashi đối với em không tệ, còn có Namgyal.” Rinchen bứt cỏ xanh trên đất, nói.
“Em biết, đây đều là số mệnh. Rinchen, anh nói số mệnh này sao lại giáng xuống đầu em nhỉ? Em không hề làm sai chuyện gì cơ mà? Em hiếu kính cha mẹ anh ấy, chăm chỉ làm việc, trông nom gia súc cũng rất tốt, vì sao anh ấy cứ không hài lòng chứ? Cứ không về nhà chứ? Thậm chí cả lần đầu tiên cùng em về nhà mẹ cũng không chịu?” Tôi chưa từng nói đến chuyện này với ai, dù trong lòng có bất mãn nhiều hơn, cũng đè nén trong lòng mình, ngoài mặt lại là một bộ dạng hoàn toàn không để tâm. Giờ đây, Rinchen, bạn chơi thuở nhỏ của tôi, người đàn ông tôi từng muốn gả đột nhiên nhắc đến chuyện này, khiến tôi không thể kìm nén nỗi chua xót được nữa, nước mắt từng giọt lớn rơi xuống.
“Zhoigar, đây không phải là lỗi của em, hãy tin anh, đây là vấn đề của bản thân người đàn ông. Thời gian gần đây anh ở Lhasa, đã tiếp xúc rất nhiều người Hán và người nước ngoài, cuộc sống và quan niệm của họ hoàn toàn khác với chúng ta. Gia đình của họ là một chồng một vợ, hai người cùng chung sống, tự mình nuôi dạy con cái, không cần anh em khác giúp đỡ. Hơn nữa, trước khi đám cưới họ yêu đương trước đã, hai người cảm thấy thích hợp mới đám cưới, cha mẹ sẽ không can thiệp chuyện cưới hỏi của con cái!”
“Yêu đương? Vậy thì cha mẹ làm gì?” Tôi ngước mắt nhìn Rinchen. Một chồng một vợ? Tự do yêu đương?... Thật quá sức tưởng tượng!
“Cha mẹ có công việc mà, lo tốt việc của bản thân họ là được. Chuyện đám cưới của con cái đều do chính mình làm chủ, dù sao bạn bè người Hán của anh cũng bảo thế.” Hình như Rinchen cũng chưa rõ lắm, nhưng trên mặt lại là một biểu cảm khao khát.
“Có phải anh cũng muốn sống như vậy không?” Tôi lau nước mắt, nhìn anh, như có suy tư.
“Zhoigar, hiện giờ anh vẫn chưa biết hai người chung sống tốt hay mấy anh em chung sống tốt, nhưng anh nghĩ, nếu lúc đầu cưới em, nhất định anh cũng không muốn để em ở chung với các em trai anh. Cảm giác này anh nói không rõ, dù sao cũng chính là không muốn để người khác chia sẻ tình cảm của anh và em, cho dù anh em cũng không bằng lòng!”
“Rinchen, đừng nói điều đó, chuyện của chúng ta đã qua rồi.”
“Anh chỉ lấy ví dụ thôi!”
“Thế sao anh vẫn trở về đám cưới?”
“Cho nên anh mới nói anh vẫn chưa nghĩ thông suốt mà. Không biết hai người chung sống tốt hay mấy anh em chung sống tốt, hơn nữa, cha mẹ hối thúc gấp gáp, cơ bản không cho anh thời gian suy nghĩ.”
“Í, Rinchen, anh bảo Gyatso anh ấy… anh ấy phải chăng cũng có cách nghĩ giống anh vừa rồi?”
“Anh từng hỏi Gyatso, cảm thấy chắc là có. Em nghĩ xem, anh ấy đã ở Lhasa cả mấy năm, tiếp xúc toàn người Hán và người nước ngoài, tư tưởng nhất định chịu ảnh hưởng tương đối lớn của họ. Zhoigar, anh cảm thấy Gyatso không phải là không yêu em, mà là anh ấy không chấp nhận nổi phương thức hôn nhân mấy anh em chung sống kiểu này. Nếu ban đầu chi là anh ấy cưới em, chắc chắn sẽ không trở nên thế này.”
Đêm đó sau khi trò chuyện với Rinchen, trong lòng tôi dễ chịu hơn. Ít ra Gyatso không phải là vì tôi không tốt mà không cần tôi, anh ấy chỉ là muốn độc chiếm tôi nhưng không thể toại nguyện mới trốn tránh, tôi an ủi mình như thế.
(Dorje Zhoigar)
24.4.14
Buồn tẻ
Đương
nhiên là từng có lúc rất buồn tẻ. Chẳng biết có thể tìm người nào ra
tán gẫu. Một mình ở quán cơm nhỏ ăn phần hải sản cà ri, gọi pudding với
matcha, ngồi đó xem hết tất cả tạp chí. Trong quán thông thường chẳng có
ai, ba người châu Âu đang uống bia, hai nữ một nam, trò chuyện sôi nổi.
Lại đến một ông Tây, ngồi cạnh tôi mở notebook ra, khăng khăng đòi uống trà nóng, ngồi một lát, thanh toán rồi đi.
Trong quán cà ri ở lầu 2 trung tâm thương mại, một cô gái thường đơn độc xuất hiện. Cầm túi xách LV, một mình trải qua buổi chiều dài đằng đẵng, soi gương dặm phấn, hút thuốc, lật đọc các tạp chí quá hạn, uống cà phê mocha, thỉnh thoảng hướng vào điện thoại di động nói tiếng phổ thông giọng Đài Loan. Bụng dưới của cô nhô lên, dáng vẻ uể oải, để lại túi xách trên bàn đi vào nhà vệ sinh.
Có một cô gái trẻ bắt chuyện với một ông Tây, thái độ cực kỳ chủ động, lời lẽ nhạt nhẽo, trả lời không đúng câu hỏi. Hai người như trong mây mù, hoàn toàn không nắm bắt được nội dung chủ yếu.
Sự sa lầy không thể tự giải thoát của tất cả mọi người.
Mỗi người đều sống trong chiếc lồng giam của chính mình.
Trong quán cà ri ở lầu 2 trung tâm thương mại, một cô gái thường đơn độc xuất hiện. Cầm túi xách LV, một mình trải qua buổi chiều dài đằng đẵng, soi gương dặm phấn, hút thuốc, lật đọc các tạp chí quá hạn, uống cà phê mocha, thỉnh thoảng hướng vào điện thoại di động nói tiếng phổ thông giọng Đài Loan. Bụng dưới của cô nhô lên, dáng vẻ uể oải, để lại túi xách trên bàn đi vào nhà vệ sinh.
Có một cô gái trẻ bắt chuyện với một ông Tây, thái độ cực kỳ chủ động, lời lẽ nhạt nhẽo, trả lời không đúng câu hỏi. Hai người như trong mây mù, hoàn toàn không nắm bắt được nội dung chủ yếu.
Sự sa lầy không thể tự giải thoát của tất cả mọi người.
Mỗi người đều sống trong chiếc lồng giam của chính mình.
23.4.14
Vui vẻ
Người
không vui, tốt nhất ít ở chung với người vui vẻ. Đương nhiên, cũng
không cần ở chung với người không vui khác. Không vui có đủ kiểu đủ
dạng, ai nấy có nỗi khổ của mình, ai nấy có buồn bực của mình, rất khó
có chuyện cùng bệnh thương nhau, ở chung với người không vui, chỉ càng
không vui.
Ở chung với người vui vẻ thì sao? Thấy người ta vui vẻ hớn hở, kẻ không vui còn phải che giấu nỗi buồn của mình, gắng gượng tươi cười, hòng tăng thêm niềm vui của người khác, thế thì mức độ không vui đương nhiên chỉ có tăng thêm chứ không giảm bớt.
Còn nếu kể lể buồn phiền với người vui vẻ, đó càng là cực kỳ ngu xuẩn. Người vui vẻ làm gì có tâm tình nhàn rỗi nghe bạn than khổ? Đãi bôi vài câu, đã là hết sức lịch sự rồi.
Do đó, người không vui, tốt nhất đơn độc lánh mình mà buồn bực. Nói như vậy dường như đã phủ định tác dụng của bạn bè, thực ra vừa khéo ngược lại, bạn bè qua lại, nhất định phải khiến đối phương vui vẻ, chứ không thể khiến đối phương không vui. Nếu luôn khiến bạn bè không vui, thế thì người này nhất định sẽ chẳng có quá nhiều bạn bè, hơn nữa số bạn bè ít ỏi ấy cũng sẽ dần dần mất hẳn.
Người không vui, tự động biến mất trước mặt người khác, người người hoan hỉ, đợi lúc vui vẻ lại xuất hiện.
Cứ mãi không vui thì sao? Thế thì cứ mãi đừng xuất hiện!
Ở chung với người vui vẻ thì sao? Thấy người ta vui vẻ hớn hở, kẻ không vui còn phải che giấu nỗi buồn của mình, gắng gượng tươi cười, hòng tăng thêm niềm vui của người khác, thế thì mức độ không vui đương nhiên chỉ có tăng thêm chứ không giảm bớt.
Còn nếu kể lể buồn phiền với người vui vẻ, đó càng là cực kỳ ngu xuẩn. Người vui vẻ làm gì có tâm tình nhàn rỗi nghe bạn than khổ? Đãi bôi vài câu, đã là hết sức lịch sự rồi.
Do đó, người không vui, tốt nhất đơn độc lánh mình mà buồn bực. Nói như vậy dường như đã phủ định tác dụng của bạn bè, thực ra vừa khéo ngược lại, bạn bè qua lại, nhất định phải khiến đối phương vui vẻ, chứ không thể khiến đối phương không vui. Nếu luôn khiến bạn bè không vui, thế thì người này nhất định sẽ chẳng có quá nhiều bạn bè, hơn nữa số bạn bè ít ỏi ấy cũng sẽ dần dần mất hẳn.
Người không vui, tự động biến mất trước mặt người khác, người người hoan hỉ, đợi lúc vui vẻ lại xuất hiện.
Cứ mãi không vui thì sao? Thế thì cứ mãi đừng xuất hiện!
22.4.14
Hẹn nhau ở kiếp lai sinh
Đồng lòng kết mối lương duyên,
Đời này tuy ngắn, triền miên ý tình.
Hẹn nhau ở kiếp lai sinh,
Thiếu niên như ngọc gặp mình là ta.
Thương Ương Gia Thố, ba trăm năm sau, Ngài phải chăng vẫn còn nhớ buổi chiều hôm đó, nàng tha thướt đi qua, lạnh lùng mà diễm lệ, trong khoảnh khắc đôi mắt Ngài như bị châm đau nhói?
Ngài vừa muốn tìm hiểu tung tích của nàng, thì nàng sớm đã nhẹ nhàng đi xa, phảng phất một ảo ảnh, lại phảng phất một giấc mơ.
Ngài buồn bã hụt hẫng, giống như đối diện một cảnh đẹp tuyệt trần, giống như sen đỏ nở rộ trên đỉnh núi tuyết, cũng giống như ngọn lửa cháy rực trên núi băng cao ngất, sắc mặt đỏ ửng ấy, nghiêng cả cố quốc, say cả hồng nhan.
Cảm giác kỳ diệu ấy chỉ có thể lĩnh hội bằng tâm ý, không thể diễn tả bằng ngôn ngữ. Đó là cảm giác của luyến ái.
Lúc này, một nhà sư gầy gò cao dong dỏng bước đến, ông muốn cùng Ngài bàn luận Phật học, bàn luận tín ngưỡng, bàn luận ý nghĩa của sinh mệnh.
Ngài và ông đứng dưới tường thành, hai người đứng yên hồi lâu, ánh nắng chênh chếch chiếu xuống, hai cái bóng nhàn nhạt trên đất tuyết.
Nhà sư lạnh lùng chăm chú nhìn Ngài, nói: “Hồng nhan chớp mắt đã là xương khô, đây là ma chướng, đây là tâm ma.”
Ngài vâng vâng dạ dạ, đành lật giở kinh Phật, thế nhưng trong Phạn âm du dương, từng chút từng chút, lại toàn là bóng dáng của nàng.
Thương Ương Gia Thố, đúng vậy, Ngài trốn không thoát, đây chính là số mệnh của Ngài, luân hồi của Ngài.
Trên bánh xe vận mệnh, sớm đã điêu khắc vương vấn giữa hai người, số mệnh của hai người định sẵn phải gặp nhau. Rất nhiều kiếp, hai người đi lướt qua nhau, chính là trần duyên đẹp buồn dường ấy.
Một kiếp đó, Ngài là Tam thiếu gia nhà họ Tạ, còn nàng là ả cáo đỏ chuyên tâm tu luyện ở núi sau. Ngài đứng trên phiến đá xanh sang sảng đọc thơ, nàng ở trong rừng trúc lặng lẽ đăm đăm nhìn Ngài. Sau đó, Ngài bảng vàng đề tên, giương cờ gióng trống vội đến kinh thành làm phò mã, còn nàng thì âm thầm khóc trong rừng trúc.
Cũng là vào lần ấy, bên đèn xanh tượng Phật, nàng khổ sở van xin một đoạn trần duyên, mong mỏi có thể cùng Ngài gặp nhau lần nữa.
Lại một kiếp, Ngài là lữ khách lang thang, còn nàng, là cô gái che chiếc ô giấy dầu nơi ngõ nhỏ.
Chốn rừng rậm cổ xưa xuất hiện hai con đường, hai người, đã gặp nhau lần nữa ở ngã giao thoa của số mệnh.
Hai người vốn là khách đi đường, kẻ chọn lưu lạc, kẻ chọn cố thủ. Thế nhưng, hai người đã yêu nhau như thế.
Ly biệt rốt cuộc phải đến, bắt đầu, đã hàm nghĩa kết thúc.
Trước khi đi, Ngài thắm thiết nhìn nàng lần cuối, không thể cất bước.
Lúc đó, ánh trăng từ trên trời tưới xuống, hoa tuyết giăng che trời đất, lả tả phất phới, xa xa truyền đến tiếng tiêu thần bí, giữa trời đất một vùng điêu tàn.
Dưới ánh trăng, nàng buồn bã mỉm cười, si mê nhìn Ngài, nàng nguyện ý ở dưới trăng vì Ngài múa một điệu múa cuối cùng, chỉ vì Ngài múa một điệu múa cuối cùng này.
Nàng múa lượn trong tuyết, thân ảnh thướt tha, chiếu rọi ánh trăng như tuyết. Ánh trăng tựa nước, người tựa sen đỏ, tất cả mơ hồ như giấc mộng.
Ngài cũng nhẹ nhàng ngồi trên tảng đá xanh, gảy cây đàn cổ, cuối cùng vì nàng diễn tấu một khúc, chỉ diễn tấu vì một mình nàng. Đây là một khúc nhạc thần bí khôn lường, hôm nay Ngài đơn độc vì nàng diễn tấu một lần, kiếp này cũng chỉ diễn tấu một lần này thôi, khúc nhạc đã dứt, âm thanh này từ đây tuyệt tích!
Dư âm quanh quẩn, bảy ngày không tan. Tiếng đàn thần bí này, chỉ sẽ vì một mình nàng vang vọng.
Không biết lại trải qua luân hồi mấy đời mấy kiếp, vương vấn mấy kiếp, cuối cùng, Ngài là một lữ khách, lại ngủ nhờ trong gian nhà màu xanh ấy. Vào đêm trăng đó, lại đọc được câu chuyện tình yêu ghi chép trên bia đá, tựa hồ có cảm ngộ, nhưng trước sau không thể tham ngộ.
Đêm đó, Ngài dạo bước ra ngoài, trong màn đêm mông lung, lại nhìn thấy một cô gái, kề bên đèn xanh nến đỏ, lặng lẽ giữ suông một đoạn tình duyên. Dưới ánh đèn vàng vọt, bóng lưng mảnh mai và ánh mắt quật cường của nàng, khiến Ngài thốt nhiên hoảng hốt.
Một vạn năm sau, Ngài vẫn nhớ được khoảnh khắc ấy, nàng chăm chú nhìn Ngài, giọt lệ tinh khiết rưng rưng trong mắt.
Ngài bỗng nhớ lại kiếp trước của hai người, rất nhiều buổi chiều xa xưa, Ngài đã nắm tay nàng, đi qua bãi cỏ hoang vu, xuyên qua hành lang hun hút cô độc, giẫm lên rừng cây rậm rạp như thế.
Người con gái đau lòng dưới trăng, vì Ngài đêm đêm cầu nguyện kia, chính là nàng sao?
Ngài ngẩn ngơ đứng đó, cứ thế nhìn nàng từng bước từng bước đi về phía Ngài, chỉ là khoảnh khắc, lại tưởng chừng đã trải qua hàng thế kỷ.
Hoa tuyết tung bay, rối rít chờn vờn trong gió lớn, tựa như cánh bướm tuyệt vọng xoay vòng trước gió.
Hồng Hoàn, là nàng ư?
Trong sương mù dày đặc, một con cáo đỏ, chạy băng băng giữa hoang dã.
Ngài đẩy cửa bước ra, vào lúc thảng thốt Ngài đã lệ rơi đầm đìa, những giọt nước mắt tuôn chảy đó, đã lắng đọng trần duyên mấy đời mấy kiếp.
Hồng Hoàn?
(Tử Phi)
Đời này tuy ngắn, triền miên ý tình.
Hẹn nhau ở kiếp lai sinh,
Thiếu niên như ngọc gặp mình là ta.
Thương Ương Gia Thố, ba trăm năm sau, Ngài phải chăng vẫn còn nhớ buổi chiều hôm đó, nàng tha thướt đi qua, lạnh lùng mà diễm lệ, trong khoảnh khắc đôi mắt Ngài như bị châm đau nhói?
Ngài vừa muốn tìm hiểu tung tích của nàng, thì nàng sớm đã nhẹ nhàng đi xa, phảng phất một ảo ảnh, lại phảng phất một giấc mơ.
Ngài buồn bã hụt hẫng, giống như đối diện một cảnh đẹp tuyệt trần, giống như sen đỏ nở rộ trên đỉnh núi tuyết, cũng giống như ngọn lửa cháy rực trên núi băng cao ngất, sắc mặt đỏ ửng ấy, nghiêng cả cố quốc, say cả hồng nhan.
Cảm giác kỳ diệu ấy chỉ có thể lĩnh hội bằng tâm ý, không thể diễn tả bằng ngôn ngữ. Đó là cảm giác của luyến ái.
Lúc này, một nhà sư gầy gò cao dong dỏng bước đến, ông muốn cùng Ngài bàn luận Phật học, bàn luận tín ngưỡng, bàn luận ý nghĩa của sinh mệnh.
Ngài và ông đứng dưới tường thành, hai người đứng yên hồi lâu, ánh nắng chênh chếch chiếu xuống, hai cái bóng nhàn nhạt trên đất tuyết.
Nhà sư lạnh lùng chăm chú nhìn Ngài, nói: “Hồng nhan chớp mắt đã là xương khô, đây là ma chướng, đây là tâm ma.”
Ngài vâng vâng dạ dạ, đành lật giở kinh Phật, thế nhưng trong Phạn âm du dương, từng chút từng chút, lại toàn là bóng dáng của nàng.
Thương Ương Gia Thố, đúng vậy, Ngài trốn không thoát, đây chính là số mệnh của Ngài, luân hồi của Ngài.
Trên bánh xe vận mệnh, sớm đã điêu khắc vương vấn giữa hai người, số mệnh của hai người định sẵn phải gặp nhau. Rất nhiều kiếp, hai người đi lướt qua nhau, chính là trần duyên đẹp buồn dường ấy.
Một kiếp đó, Ngài là Tam thiếu gia nhà họ Tạ, còn nàng là ả cáo đỏ chuyên tâm tu luyện ở núi sau. Ngài đứng trên phiến đá xanh sang sảng đọc thơ, nàng ở trong rừng trúc lặng lẽ đăm đăm nhìn Ngài. Sau đó, Ngài bảng vàng đề tên, giương cờ gióng trống vội đến kinh thành làm phò mã, còn nàng thì âm thầm khóc trong rừng trúc.
Cũng là vào lần ấy, bên đèn xanh tượng Phật, nàng khổ sở van xin một đoạn trần duyên, mong mỏi có thể cùng Ngài gặp nhau lần nữa.
Lại một kiếp, Ngài là lữ khách lang thang, còn nàng, là cô gái che chiếc ô giấy dầu nơi ngõ nhỏ.
Chốn rừng rậm cổ xưa xuất hiện hai con đường, hai người, đã gặp nhau lần nữa ở ngã giao thoa của số mệnh.
Hai người vốn là khách đi đường, kẻ chọn lưu lạc, kẻ chọn cố thủ. Thế nhưng, hai người đã yêu nhau như thế.
Ly biệt rốt cuộc phải đến, bắt đầu, đã hàm nghĩa kết thúc.
Trước khi đi, Ngài thắm thiết nhìn nàng lần cuối, không thể cất bước.
Lúc đó, ánh trăng từ trên trời tưới xuống, hoa tuyết giăng che trời đất, lả tả phất phới, xa xa truyền đến tiếng tiêu thần bí, giữa trời đất một vùng điêu tàn.
Dưới ánh trăng, nàng buồn bã mỉm cười, si mê nhìn Ngài, nàng nguyện ý ở dưới trăng vì Ngài múa một điệu múa cuối cùng, chỉ vì Ngài múa một điệu múa cuối cùng này.
Nàng múa lượn trong tuyết, thân ảnh thướt tha, chiếu rọi ánh trăng như tuyết. Ánh trăng tựa nước, người tựa sen đỏ, tất cả mơ hồ như giấc mộng.
Ngài cũng nhẹ nhàng ngồi trên tảng đá xanh, gảy cây đàn cổ, cuối cùng vì nàng diễn tấu một khúc, chỉ diễn tấu vì một mình nàng. Đây là một khúc nhạc thần bí khôn lường, hôm nay Ngài đơn độc vì nàng diễn tấu một lần, kiếp này cũng chỉ diễn tấu một lần này thôi, khúc nhạc đã dứt, âm thanh này từ đây tuyệt tích!
Dư âm quanh quẩn, bảy ngày không tan. Tiếng đàn thần bí này, chỉ sẽ vì một mình nàng vang vọng.
Không biết lại trải qua luân hồi mấy đời mấy kiếp, vương vấn mấy kiếp, cuối cùng, Ngài là một lữ khách, lại ngủ nhờ trong gian nhà màu xanh ấy. Vào đêm trăng đó, lại đọc được câu chuyện tình yêu ghi chép trên bia đá, tựa hồ có cảm ngộ, nhưng trước sau không thể tham ngộ.
Đêm đó, Ngài dạo bước ra ngoài, trong màn đêm mông lung, lại nhìn thấy một cô gái, kề bên đèn xanh nến đỏ, lặng lẽ giữ suông một đoạn tình duyên. Dưới ánh đèn vàng vọt, bóng lưng mảnh mai và ánh mắt quật cường của nàng, khiến Ngài thốt nhiên hoảng hốt.
Một vạn năm sau, Ngài vẫn nhớ được khoảnh khắc ấy, nàng chăm chú nhìn Ngài, giọt lệ tinh khiết rưng rưng trong mắt.
Ngài bỗng nhớ lại kiếp trước của hai người, rất nhiều buổi chiều xa xưa, Ngài đã nắm tay nàng, đi qua bãi cỏ hoang vu, xuyên qua hành lang hun hút cô độc, giẫm lên rừng cây rậm rạp như thế.
Người con gái đau lòng dưới trăng, vì Ngài đêm đêm cầu nguyện kia, chính là nàng sao?
Ngài ngẩn ngơ đứng đó, cứ thế nhìn nàng từng bước từng bước đi về phía Ngài, chỉ là khoảnh khắc, lại tưởng chừng đã trải qua hàng thế kỷ.
Hoa tuyết tung bay, rối rít chờn vờn trong gió lớn, tựa như cánh bướm tuyệt vọng xoay vòng trước gió.
Hồng Hoàn, là nàng ư?
Trong sương mù dày đặc, một con cáo đỏ, chạy băng băng giữa hoang dã.
Ngài đẩy cửa bước ra, vào lúc thảng thốt Ngài đã lệ rơi đầm đìa, những giọt nước mắt tuôn chảy đó, đã lắng đọng trần duyên mấy đời mấy kiếp.
Hồng Hoàn?
(Tử Phi)
14.4.14
Trấn nhỏ Giang Nam (trích)
Trấn nhỏ Giang Nam mà tôi từng đến rất nhiều,
nhắm mắt liền có thể tưởng tượng ra, đường sông hẹp chạy xuyên qua trấn,
những chiếc cầu đá điêu khắc tinh tế, nhà dân xây ven sông, bên dưới
sàn gác chính là nước, bến đỗ bằng thềm đá từ dưới sàn
gác từng bậc từng bậc nhô ra, phụ nữ đang giặt giũ trên bến, còn trên
chiếc thuyền mui đen cách họ chỉ có mấy thước đang bốc lên một làn khói
bếp trăng trắng, khói bếp xuyên qua gầm cầu bay đến bờ đối diện, bờ đối
diện bên sông có lan can đá vừa thấp vừa rộng, ngồi được nằm được, mấy
cụ già vẻ mặt yên tĩnh ngồi đó ngắm thuyền bè qua lại. So với trấn nhỏ
gồm nhiều nhà sàn bên sông Tương Tây dưới ngòi bút của Thẩm Tùng Văn,
trấn nhỏ Giang Nam thiếu kiểu hồn hậu chất phác hiểm trở lạ lùng ấy, dư
một chút thông suốt êm ả. Đằng trước của chúng không có bãi đá sông
hiểm, đằng sau không có hoang mạc, do đó tuy u tĩnh hẻo lánh lại chẳng
có khí thế gì; chúng đa số rất lâu đời, nhưng phương thức sinh hoạt
trước sau tương đối dễ chịu chẳng khiến chúng bảo lưu bao nhiêu hoang
tàn và di tích, thế nên cũng chẳng nghe ra bao nhiêu tiếng than vắn thở
dài của lịch sử; đương nhiên chúng từng có thăng trầm vinh nhục, nhưng
quả thực cũng chưa từng bày ra cảnh tượng quá trang trọng, vì vậy cũng
không dễ nảy sinh cảm khái bể dâu giống như cầu Chu Tước, ngõ Ô Y. Tóm
lại, lộ trình lịch sử và phong cách diện mạo hiện thực của chúng đều tỏ
ra chân chất mà bền bỉ, nhỏ hẹp mà lâu dài, giống như những con đường
lát đá phiến ngang dọc cổ trấn.
Huy hoàng chớp mắt điêu tàn, ồn ào sôi sục là tên khác của vắn số. Nghĩ tới nghĩ lui, chẳng nơi nào có thể trở thành một kiểu tượng trưng cho lối sống đạm bạc mà yên ổn hơn trấn nhỏ Giang Nam. Trong văn nhân Trung Quốc có đông đảo một tốp người sau khi vào đời gặp khó khăn đã trốn tránh đến Phật, Đạo, nhưng kẻ thật sự gửi thân nơi chùa miếu đạo quán không quá nhiều, mà xây nhà chốn núi hoang, một mình câu cá nơi sông lạnh suy cho cùng sẽ đem đến một loạt phiền phức trên sinh hoạt cơ bản. “Đại ẩn sĩ ẩn cư ở phố chợ”, phương thức ẩn náu tốt nhất không ngoài nấp trong các trấn nhỏ Giang Nam. Đối lập với hiển hách là trạng thái bình thường, đối lập với quan trường là bình dân, so với cỏ tơi cây rậm giữa núi rừng càng có tính ẩn dật, chính là biến mất trong cuộc sống thường ngày của bá tính bình dân ở một trấn nhỏ nào đó. Ẩn dật giữa núi rừng còn giữ lại và tuyên dương một niềm kiêu ngạo cô độc, mà ẩn dật cô ngạo chung quy là không thành khẩn; ẩn dật giữa phố chợ trấn nhỏ chẳng những không cần cố ý dày vò và hủy hoại sinh mệnh, ngược lại còn có thể sống hết sức thoải mái, khiến sinh mệnh gắn bó với một góc nhỏ vừa thanh tịnh vừa thuận tiện, hầu như có thể hòa tan hết bản thân từ ngoài vào trong, do đó cũng trở thành hình thái cao nhất của ẩn dật. Nói ẩn dật có lẽ quá hạn hẹp, dù sao trong suy nghĩ của tôi, cầu nhỏ nước chảy nhà người, nỗi nhớ canh rau rút gỏi cá lư, đều là hình ảnh sinh thái mang tính tôn giáo và triết học nhân sinh.
(Dư Thu Vũ)
Huy hoàng chớp mắt điêu tàn, ồn ào sôi sục là tên khác của vắn số. Nghĩ tới nghĩ lui, chẳng nơi nào có thể trở thành một kiểu tượng trưng cho lối sống đạm bạc mà yên ổn hơn trấn nhỏ Giang Nam. Trong văn nhân Trung Quốc có đông đảo một tốp người sau khi vào đời gặp khó khăn đã trốn tránh đến Phật, Đạo, nhưng kẻ thật sự gửi thân nơi chùa miếu đạo quán không quá nhiều, mà xây nhà chốn núi hoang, một mình câu cá nơi sông lạnh suy cho cùng sẽ đem đến một loạt phiền phức trên sinh hoạt cơ bản. “Đại ẩn sĩ ẩn cư ở phố chợ”, phương thức ẩn náu tốt nhất không ngoài nấp trong các trấn nhỏ Giang Nam. Đối lập với hiển hách là trạng thái bình thường, đối lập với quan trường là bình dân, so với cỏ tơi cây rậm giữa núi rừng càng có tính ẩn dật, chính là biến mất trong cuộc sống thường ngày của bá tính bình dân ở một trấn nhỏ nào đó. Ẩn dật giữa núi rừng còn giữ lại và tuyên dương một niềm kiêu ngạo cô độc, mà ẩn dật cô ngạo chung quy là không thành khẩn; ẩn dật giữa phố chợ trấn nhỏ chẳng những không cần cố ý dày vò và hủy hoại sinh mệnh, ngược lại còn có thể sống hết sức thoải mái, khiến sinh mệnh gắn bó với một góc nhỏ vừa thanh tịnh vừa thuận tiện, hầu như có thể hòa tan hết bản thân từ ngoài vào trong, do đó cũng trở thành hình thái cao nhất của ẩn dật. Nói ẩn dật có lẽ quá hạn hẹp, dù sao trong suy nghĩ của tôi, cầu nhỏ nước chảy nhà người, nỗi nhớ canh rau rút gỏi cá lư, đều là hình ảnh sinh thái mang tính tôn giáo và triết học nhân sinh.
(Dư Thu Vũ)
13.4.14
Không nói yêu anh
Trừ phi linh lan
Không nguyện hé nở bên đường anh đi qua
Nếu không
Em không nói
Trừ phi ánh trăng
Không còn quanh quẩn trong rượu anh hâm nóng
Nếu không
Em không nói
Trừ phi ngón tay
Không thể lòng vòng trên sách anh từng đọc
Nếu không
Em không nói
Trừ phi
Anh thoáng trông đã nhìn thấu em
Nếu không
Em không nói
Không nguyện hé nở bên đường anh đi qua
Nếu không
Em không nói
Trừ phi ánh trăng
Không còn quanh quẩn trong rượu anh hâm nóng
Nếu không
Em không nói
Trừ phi ngón tay
Không thể lòng vòng trên sách anh từng đọc
Nếu không
Em không nói
Trừ phi
Anh thoáng trông đã nhìn thấu em
Nếu không
Em không nói
12.4.14
Tháng tư
Tôi thích nhất ánh nắng của tháng tư, ánh nắng của tháng tư không giận không nóng, trong suốt ấm nhuần có cảm giác của lưu ly.
Ánh nắng tháng tư khiến mỗi một đóa hoa đều là thủy tinh tạc thành, hát bài hát của hy vọng trong gió, tiếng hát năm màu phảng phất cầu vồng.
Ánh nắng tháng tư khiến mỗi một ngọn cỏ đều là phỉ thúy mơn mởn, viết vần thơ của ngày mai trên đất, câu thơ xanh thẳm tựa hồ biển cả.
Trong ánh nắng tháng tư, ta trút bỏ lớp áo xám xịt của mùa đông rét mướt, tiếp xúc với cái nóng ấm từ chân trời xa xăm truyền đến, làm cho tôi nhớ đến thời thơ ấu, mình trần chạy qua cánh đồng tháng tư, ánh nắng giống như vòng tay ấm áp của mẹ, sau đó bọn tôi nhảy xuống dòng suối còn lưu lại đông hàn năm ngoái bơi lội. Cuối cùng, bọn tôi mang những giọt nước như lưu ly đọng khắp người nằm trên tảng đá lớn, nước từng chút một tan vào không trung, bọn tôi liền ngủ thiếp bên suối.
Trong ánh nắng tháng tư, thảo nguyên, rừng cây, dòng suối, tảng đá đều là tịnh thổ, ít ra đối với trẻ con vô lo vô nghĩ là như vậy. Do đó, bất kể tôn giáo nào, đều nói chúng ta nên giữ tấm lòng thuần khiết như trẻ sơ sinh, mới có thể tiến vào miền đất thanh tịnh.
Tháng tư vẫn là tháng tư, ánh nắng ấm áp vẫn thế, đáng tiếc rằng chúng ta đều chẳng còn là trẻ thơ nữa.
(Lâm Thanh Huyền)
Ánh nắng tháng tư khiến mỗi một đóa hoa đều là thủy tinh tạc thành, hát bài hát của hy vọng trong gió, tiếng hát năm màu phảng phất cầu vồng.
Ánh nắng tháng tư khiến mỗi một ngọn cỏ đều là phỉ thúy mơn mởn, viết vần thơ của ngày mai trên đất, câu thơ xanh thẳm tựa hồ biển cả.
Trong ánh nắng tháng tư, ta trút bỏ lớp áo xám xịt của mùa đông rét mướt, tiếp xúc với cái nóng ấm từ chân trời xa xăm truyền đến, làm cho tôi nhớ đến thời thơ ấu, mình trần chạy qua cánh đồng tháng tư, ánh nắng giống như vòng tay ấm áp của mẹ, sau đó bọn tôi nhảy xuống dòng suối còn lưu lại đông hàn năm ngoái bơi lội. Cuối cùng, bọn tôi mang những giọt nước như lưu ly đọng khắp người nằm trên tảng đá lớn, nước từng chút một tan vào không trung, bọn tôi liền ngủ thiếp bên suối.
Trong ánh nắng tháng tư, thảo nguyên, rừng cây, dòng suối, tảng đá đều là tịnh thổ, ít ra đối với trẻ con vô lo vô nghĩ là như vậy. Do đó, bất kể tôn giáo nào, đều nói chúng ta nên giữ tấm lòng thuần khiết như trẻ sơ sinh, mới có thể tiến vào miền đất thanh tịnh.
Tháng tư vẫn là tháng tư, ánh nắng ấm áp vẫn thế, đáng tiếc rằng chúng ta đều chẳng còn là trẻ thơ nữa.
(Lâm Thanh Huyền)
11.4.14
Vị trà
Tôi
thường một mình ngồi uống trà, cùng một lượt pha, nước thứ nhất đắng
chát, nước thứ hai ngọt thơm, nước thứ ba đậm đà, nước thứ tư lành lạnh,
nước thứ năm thanh đạm, trà ngon đến đâu, qua nước thứ năm sẽ mất đi
mùi vị.
Quá trình pha trà này khiến tôi nghĩ đến đời người, niên thiếu non nớt rụt rè, thanh xuân thuần khiết chất phác, trung niên trầm tĩnh vững vàng, và tuổi già càng đi càng nhạt, dần dần mất đi ý vị của đời người.
Tôi cũng hay cùng người đối ẩm, đối ẩm tốt nhất là chẳng nói lời nào, chỉ nhẹ nhàng thưởng trà; kế đến là đôi ba câu, rồi dăm bảy câu, kể chuyện cuộc sống gần đây; không tốt là mồm năm miệng mười, nói chơi không đúng; tệ nhất là nói năng bừa bãi, bình luận phải trái của người khác.
Lúc cùng người đối ẩm thường khiến tôi nghĩ rằng cảnh giới của sinh mệnh quả thực vượt qua lời nói, trong tâm linh hữu tình không cần trò chuyện, cũng có thể ấn chứng lẫn nhau. Trong uống trà có đủ các cảnh giới nước sâu sóng lặng, nước chảy róc rách, hoa đỏ liễu xanh, chim muông líu lo, ngựa xe tấp nập.
Tôi thích nhất là uống trà vào mùa đông gió rét lạnh lẽo, đêm khuya đến mức mọi âm thanh đều im ắng, một mình thưởng trà trong thanh tịnh, vừa uống đã hết, hai tay ôm chiếc tách không, còn cảm giác được độ nóng của trà trong tách, ấm áp, nhanh chóng truyền đến tận đáy lòng.
Ví như đời người sau khi trải hết thê lương, nửa đêm quán chiếu tâm ý, nhìn thấy, và cảm thấy, lồng ngực vẫn còn sục sôi nhiệt huyết thời trai trẻ.
(Lâm Thanh Huyền)
Quá trình pha trà này khiến tôi nghĩ đến đời người, niên thiếu non nớt rụt rè, thanh xuân thuần khiết chất phác, trung niên trầm tĩnh vững vàng, và tuổi già càng đi càng nhạt, dần dần mất đi ý vị của đời người.
Tôi cũng hay cùng người đối ẩm, đối ẩm tốt nhất là chẳng nói lời nào, chỉ nhẹ nhàng thưởng trà; kế đến là đôi ba câu, rồi dăm bảy câu, kể chuyện cuộc sống gần đây; không tốt là mồm năm miệng mười, nói chơi không đúng; tệ nhất là nói năng bừa bãi, bình luận phải trái của người khác.
Lúc cùng người đối ẩm thường khiến tôi nghĩ rằng cảnh giới của sinh mệnh quả thực vượt qua lời nói, trong tâm linh hữu tình không cần trò chuyện, cũng có thể ấn chứng lẫn nhau. Trong uống trà có đủ các cảnh giới nước sâu sóng lặng, nước chảy róc rách, hoa đỏ liễu xanh, chim muông líu lo, ngựa xe tấp nập.
Tôi thích nhất là uống trà vào mùa đông gió rét lạnh lẽo, đêm khuya đến mức mọi âm thanh đều im ắng, một mình thưởng trà trong thanh tịnh, vừa uống đã hết, hai tay ôm chiếc tách không, còn cảm giác được độ nóng của trà trong tách, ấm áp, nhanh chóng truyền đến tận đáy lòng.
Ví như đời người sau khi trải hết thê lương, nửa đêm quán chiếu tâm ý, nhìn thấy, và cảm thấy, lồng ngực vẫn còn sục sôi nhiệt huyết thời trai trẻ.
(Lâm Thanh Huyền)
Subscribe to:
Posts (Atom)