Ánh dương lúc giữa trưa nóng hừng hực, nó không bờ không bến từ trên
trời chảy xuống, mang một đoạn cảnh mộng hư ảo sáng ngời cho tất cả
những người ngưỡng vọng nó.
Trong một gian Phật đường u ám của
tu viện Drepung lại chẳng nhìn thấy một tia nắng, ở đây chỉ có đèn bơ lặng lẽ cháy. Trong lư hương khói nhẹ vấn vít, dưới lớp lớp kinh
phướn, một vị Lạt Ma trẻ tuổi gầy gò quỳ
trước Phật. Ngài nhắm hai mắt, tay lần tràng hạt, thầm tụng niệm kinh
văn. Đã tụng niệm rất nhiều lần, nóng nảy trong lòng vẫn khó lắng dịu,
dù Ngài khắc chế kìm nén thế nào, trước mắt luôn có một đôi mắt hư ảo
như khói nổi. Đôi mắt này chẳng biết bắt đầu từ lúc nào đã cứ chăm chú
nhìn Ngài, nhìn Ngài lưu lạc cùng khốn trong một cảnh mộng mê loạn,
không thể tự thoát ra. Ngài hết lần này đến lần khác đối diện với đôi
mắt này, nhưng ngoài tròng đen sâu thẳm của nó, chẳng nhìn thấy gì khác.
Ngài không nhìn thấy nó mọc trên một khuôn mặt ra sao, càng không đoán
ra nó náu thân giữa đám mây nhởn nhơ nào, Ngài chỉ có thể nghe thấy âm
thanh khi nó chớp mắt, đó là âm thanh vỗ cánh của chim ưng bay cao nhất
trên bầu trời, bị gió thổi, xa xa bay vào trong tai Ngài.
Khi
Ngài còn là Dangsang Wangpo trong thôn Urgelling dưới núi Nala, Monyu,
Nam Tạng, Ngài thích nhất là ngẩng đầu ngắm chim ưng chao liệng trên bầu
trời. Con chim mạnh mẽ như vậy không thẹn là hóa thân của Không Hành
Mẫu (Dakini), chúng qua lại giữa thần linh trên cõi trời và người phàm
như sâu kiến trên mặt đất, truyền đạt ý chỉ của Phật Bồ Tát đến bốn
phương tám hướng. Nhóc Dangsang Wangpo là một đứa bé thông minh, nhóc
đọc thuộc lòng kinh Phật luôn nhanh hơn người khác, khi sư phụ kiểm tra
nhóc gần như là buột miệng đọc ra: Không Hành Mẫu thân như cô gái trẻ
mười sáu tuổi, một mặt hai tay, eo nhỏ yểu điệu, cổ đeo dây chuyền xương
người, dùng đóa hoa chuông nhỏ làm trang sức, chân phải lơ lửng giữa
trời, chân trái đạp lên tòa sen với vầng mặt trời, phía sau có lửa Ban
Nhược… Nếu thật sự như kinh Phật kể, Không Hành Mẫu chắc là một cô gái
trẻ tuổi xinh đẹp, thế thì vì sao cô không chọn hoa sen tuyết thánh
khiết tươi đẹp hay động vật đẹp đẽ thuần tính làm hóa thân của mình, mà
phải chọn chim ưng hung mãnh cô ngạo?
Nhóc Dangsang Wangpo còn
chưa kịp nghĩ thấu vấn đề này, đã rời khỏi thôn Urgelling, rong ruổi
ngàn dặm đến cung Potala của Lhasa, được chọn làm linh đồng chuyển thế
của Phật sống Đạt Lai. Có lẽ chính từ lúc nhóc quay đầu cũng không nhìn
thấy núi Nala nữa, đôi mắt trong cảnh mộng ấy liền bắt đầu chăm chú nhìn
nhóc. Lại có lẽ đôi mắt ấy là đang chờ đợi nhóc, chờ cuối cùng có một
ngày, nhóc Dangsang Wangpo lạc đường có thể tìm được phương hướng trở về
quê hương.
Đôi mắt ấy… là Bồ Tát Không Hành Mẫu đang nhìn Ngài
sao? Nếu thật sự là Bồ Tát, vì sao không thể cho Ngài nhiều gợi ý và ý
chỉ hơn? Vì sao phải dùng một cái nhìn chăm chú đằng đẵng để khảo nghiệm
kẻ tôi tớ trung thành nhất của bà? Trong lời khấn thầm trước Phật, Ngài
từng vô số lần hướng về Phật Bồ Tát hỏi vấn đề này, nhưng Thích Ca Mâu
Ni, Quan Thế Âm Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi, Cát Tường Thiên Nữ và các Pháp
Vương, Kim Cang đều không trả lời, họ ngồi ngay ngắn trên từng tòa từng
tòa sen, nhìn Ngài với đôi mắt thương trời xót người, đợi Ngài tự mình
tìm được đáp án của câu hỏi.
Sau khi trải qua học tập cần mẫn
và bế quan gian khổ, Ngài thọ giới sa di từ Ban Thiền Ngạch Nhĩ Đức Ni,
phụng sắc chỉ tọa sàng, từ đó đã trở thành Phật sống Đạt Lai thứ 6 được
muôn dân lễ bái kính yêu trong cung Potala, trở thành Tsangyang Gyatso
uy nghi rạng rỡ, sắc tướng trang nghiêm. Mấy năm qua đi, nghi vấn này đã
biến thành tuyết đọng ngàn xưa không tan trên núi Hymalaya, chúng nén
chặt thành băng, từ từ trở nên kiên cố không thể phá vỡ, đông thành một
khối với đá núi cứng rắn tương tự, có lẽ mãi mãi cũng sẽ không tách rời
nữa.
Chú nhóc Dangsang Wangpo ngẩng đầu nhìn trời ấy dần dần bị
băng tuyết hoàn toàn phủ lấp, trầm mặc ngủ yên trong chốn sâu nội tâm
của Ngài, càng ngày càng lạnh lẽo, càng ngày càng hư vô, thậm chí có lúc
ngay cả bản thân Ngài cũng đã có chút không nhớ nổi bộ dạng ngày trước
của mình, gió núi đượm hương hoa dại dưới núi Nala, bánh tsampa mẹ tự
tay làm trong thôn Urgelling, chim ưng bay lượn trên trời cao xa không
với tới… Tất cả của tất cả đều đã đi xa, thứ lưu lại bên người Ngài chỉ
có tiếng tụng kinh mãi không ngừng nghỉ và từng đôi từng đôi mắt thành
kính chứa đầy kỳ vọng trong cung Potala. Ngài nghĩ, trọn đời này của
Ngài đều phải trải qua như vậy thôi, bị mùi đàn hương và ánh lửa của đèn bơ vây quanh, ngồi cao cao trên giường mây, dùng ánh mắt thương xót
khi Phật Bồ Tát nhìn Ngài, cũng thương xót nhìn xuống chúng sinh như
thế.
Nhưng đột nhiên, Ngài cảm thấy đôi chân ngồi gập đã lâu
quá đau nhức, đôi tay lần tràng hạt quá mệt mỏi, đôi môi không ngừng
tụng niệm kinh văn quá khô khát. Ngài, ở trong Phật đường tối tăm tu
hành quá lâu sắc mặt có chút trắng bệch, từ từ đứng dậy, đi ra khỏi Phật
đường, lại bị ánh nắng gay gắt đột ngột làm chói mắt đến nỗi mở không
ra. Ngài dùng tay che mắt, đứng rất lâu, mới lại nhìn mảng trời xanh
biếc trước mắt, và mấy áng mây trắng lười nhác trên bầu trời. Bên Phật
đường yên tĩnh có một tràng tiếng cười trong trẻo sảng khoái, Ngài không
nén nổi tình cảm thôi thúc, đi về nơi phát ra tiếng cười, nhìn thấy một
tiểu Lạt Ma đang quét nhà ở sau Phật đường. Tiểu Lạt Ma dáng vóc không
cao, trong tay cầm chổi lớn quét đông một chút tây một chút, chẳng có
người khác nói chuyện với chú, cũng không biết chú nghĩ đến điều gì, tự
một mình cười đến nghiêng ngả.
Nhất thời, có một số ký ức quá
khứ hiện lên trong đầu, trên khuôn mặt nhợt nhạt của Ngài cũng nở nụ
cười mờ nhạt. Đi đến sau lưng tiểu Lạt Ma, Ngài hỏi với thanh âm hơi
khàn: “Ngươi đang cười gì đó?” Tiểu Lạt Ma bỗng quay đầu nhìn thấy Phật
sống, sợ đến mức phịch một tiếng quỳ thụp xuống đất, co rúm lại nói
không ra lời. Lúc Ngài ở độ tuổi của tiểu Lạt Ma, vừa mới rời khỏi quê
nhà Urgelling, Ngài khi đó chắc cũng là gầy nhỏ nhát gan như vậy, giờ
đây mới phát hiện, chẳng qua là thời gian vài năm, Ngài đã trưởng thành
cao lớn thế này. Ngài mỉm cười ngồi xổm người xuống, nhẹ nhàng vuốt đầu
tiểu Lạt Ma: “Đừng sợ nhé, ta chỉ là muốn biết ngươi đang cười gì, nói
cho ta biết được không?”
Tiểu Lạt Ma ngẩng khuôn mặt đen nhẻm
lên, hai con mắt to tỏ ra đen trắng rõ ràng rất mực, chú nhóc dần dần
khôi phục bình tĩnh trong nụ cười của Phật sống, nhỏ tiếng nói với Phật
sống, chỉ cần quét xong mảnh đất này là có thể nghỉ nửa ngày, nhất định
phải nhân cơ hội hiếm có này len lén chuồn ra khỏi cung Potala, chơi
thỏa thích một chuyến, lại đến phố Barkhor ăn dồi huyết thơm nhất và
bánh tsampa ngọt nhất.
Ngài nhướng mày, ý cười càng sâu: “Cũng dắt ta đi, có được không?”
Tiểu Lạt Ma mở to mắt, không dám tin lời trong tai nghe được. Kỳ thực
sau khi nói ra câu này bản thân Ngài cũng có chút bất ngờ, đến Lhasa mấy
năm nay, Ngài xưa nay vẫn chưa từng nảy sinh hiếu kỳ đối với thế giới
bên ngoài cung Potala kia, nhưng một câu nói và thần sắc vui vẻ trên
gương mặt nhỏ nhem nhuốc của tiểu Lạt Ma này, lại khiến Ngài không nhịn
nổi muốn thò đầu ra khỏi bức tường cung điện cao ngất, nhìn ra bên ngoài
một thoáng, xem thử những thứ có thể khiến chú nhóc này vui sướng như
vậy, phải chăng cũng có thể đem lại cho Ngài vui sướng đồng dạng. Cũng
chỉ xem một lần này, sau khi trở về, Ngài vẫn làm Phật sống Đạt Lai của
Ngài, chẳng bao lâu Ngài sẽ thọ giới cụ túc, đã thọ giới này, thì xem
như đã chặt đứt một chút dính dáng cuối cùng với trần thế, trước lúc đó,
hãy để Ngài cuối cùng làm lại một lần Dangsang Wangpo.
(Dạ Dao)
No comments:
Post a Comment