Vị Phật sống lén ra khỏi cung Potala dạo chơi vừa trở về chốn tường
cao, liến nhốt mình vào Phật đường không thấy ánh mặt trời. Cửa lớn nặng
nề khép chặt, liên tiếp mấy ngày đều không mở ra. Trong Phật đường bầu
bạn với Ngài chỉ có tượng Phật vĩnh viễn im lặng sau kinh phướn đẹp đẽ.
Bơ trong ngọn đèn cháy hết, đàn hương trong lư hương cũng đốt
hết, Ngài, đã làm lại Tsangyang Gyatso, trong bóng tối giơ tay không
thấy năm ngón, hết lần này đến lần khác lặp lại các động tác đứng lên,
quỳ bái, rạp lạy sát đất, không biết đã dập đầu bao nhiêu cái. Mặt đất
băng lạnh được thân thể trẻ trung của Ngài chườm nóng, nhưng trái tim
nóng bỏng của Ngài lại không được mặt đất cứng rắn thấm lạnh, ngọn lửa
Ban Nhược làm Ngài khốn đốn kia ngược lại càng cháy càng mạnh. Trong
đám lửa trước sau có một thiếu nữ ngoảnh nhìn mỉm cười, từ đôi mắt trong
sáng của nàng có nước mắt rơi xuống, nàng nhìn Dangsang Wangpo thuộc về
núi Nala, ánh mắt dịu dàng giống như đôi tay chờ đợi đã lâu, chầm chậm
chìa về phía Ngài, muốn dẫn dắt Ngài, đã lạc lối quá lâu, đến trên con
đường trở về quê nhà.
Chẳng ai biết dụng ý thật sự của Phật
sống, chính vào lúc tất cả mọi người đều càng thêm thành kính càng thêm
sùng bái vì sự tự ước thúc nghiêm khắc và tự trách lãnh đạm của Ngài,
cánh cửa lớn đóng kín của Phật đường mở ra. Phật sống từ trong cửa đi ra
mệt mỏi mà bình tĩnh, Ngài không giải thích gì cả, chỉ kiên định cự
tuyệt nghi thức thọ giới cụ túc sắp sửa tiến hành. Giới cụ túc gồm năm
thiên bảy tụ tổng cộng hai trăm năm mươi điều, chia làm ba-la-di, tăng
tàn, thâu-lan-giá, ba-dật-đề, đề-xá-ni, ác tác, ác thuyết. Sau khi thọ
giới, mới có thể trở thành tỳ khưu và tỳ khưu ni thật sự. Chẳng ai biết
Phật sống vì sao đột nhiên đưa ra quyết định đáng sợ như thế. Các Thượng
sư lo sợ nghi hoặc mời Ban Thiền Ngạch Nhĩ Đức Ni đến, nhưng sau khi
Phật sống Ban Thiền đến cung Potala, Tsangyang Gyatso trẻ tuổi càng
nghiêm trọng hơn thỉnh cầu Phật sống Ban Thiền thu hồi giới sa di lúc
trước đã trao cho Ngài.
Dưới bầu trời xanh thẳm trong sáng, xưa
nay chưa từng có hành động bất kính đối với Thần Phật như vậy xảy ra.
Buổi chiều mất tích đó lẽ đương nhiên trở thành đối tượng bị hoài nghi
và điều tra, nhưng ngoài Dorje, không ai biết buổi chiều hôm ấy đã xảy
ra chuyện gì, cho dù là Dorje cũng chẳng qua như hiểu mà không hiểu, nói
không rõ lắm nguyên nhân thật sự Phật sống làm như vậy. Chẳng lẽ chính
là vì thiếu nữ Dawa Dolma tốt bụng kia sao? Vì vẻ đẹp xao xuyến lòng
người của nàng? Hay là vì khay bánh điểm tâm ngon lành ấy? Nhóc Dorje
càng nghĩ càng thấy không ổn, nó rất muốn làm rõ vì sao Phật sống lại
vào thời điểm mấu chốt cuối cùng cự tuyệt vinh dự cao nhất, phụ lòng
thành kính của muôn ngàn chúng sinh.
Tiểu Lạt Ma một lần
nữa trốn ra cung Potala đi thẳng đến phố Barkhor, ở nơi lần trước tình
cờ gặp thiếu nữ đó kiên trì tìm kiếm chờ đợi ba ngày, cũng không tìm
được nàng. Lúc bụng đói cồn cào, nó không có tiền mua đồ lót dạ, chỉ có
thể trơ mắt nhìn bánh điểm tâm thơm phưng phức nuốt nướt bọt ừng ực. Cô
gái bán rượu bên quán cơm nhỏ nhìn thấy vẻ thèm thuồng trên mặt chú
nhóc, cười nhẹ vẫy vẫy tay với Dorje, đưa cho nó một miếng bánh bơ bốc
khói. Dorje nhồm nhoàm ăn hết một miếng bánh lớn, lại nhìn thấy trên mặt
cô gái này mang máng có hình bóng của thiếu nữ đó. Nó đánh bạo hỏi chị,
cô gái lại bỗng chốc vành mắt đỏ hoe, cúi đầu xuống, có nước mắt từ
trong hốc mắt rơi xuống.
Em gái Dawa Dolma của chị mấy ngày
trước đã qua đời, nhưng nàng không thể cử hành thiên táng giống như
những người thân thích đã chết khác, mà là bị chôn dưới chân núi hoang
vu lạnh lẽo ngoài thành Lhasa. Trong lòng người dân Tạng, chỉ có người
chết bởi bị giết hoặc tự sát mới thổ táng, kẻ bị chôn vào bùn đất mãi
mãi cũng không thể chuyển thế. Dorje khẩn thiết hỏi, cô gái khóc rất
lâu, mới thận trọng nói với Dorje, Dawa Dolma khi chết tội nghiệt sâu
nặng, nàng không phải bệnh chết, mà là dùng một con dao sắc nhọn đâm vào
ngực, tự mình giết chết chính mình.
Dorje hô lên kinh ngạc thay đổi sắc mặt: “Vì sao!”
Nước mắt của cô gái không ngừng được, đau khổ trong lòng dồn nén đến
khó chịu, chị như trút ra kể hết với chú nhóc trước mặt. Em gái Dawa
Dolma đã định hôn ước, ngay vào mấy ngày trước lễ cưới nàng đột nhiên
nói với cha mẹ không bằng lòng gả cho chồng chưa cưới của mình. Chẳng ai
biết vì sao nàng có quyết định không thể hiểu nổi này, cha mẹ khuyên
can mãi không được nổi giận đánh đập thậm tệ đứa con gái cứng cỏi của
họ, người chị thương em gái lúc đêm khuya đưa thuốc trị thương đến kiên
trì gạn hỏi, nhưng nghe được lại là nguyên nhân càng không sao hiểu nổi.
Phản kháng kiên định không thể thay đổi quyết tâm gả con gái của cha
mẹ, Dawa Dolma xinh đẹp kiên định đã kết liễu mạng sống mười lăm tuổi
của mình vào đêm trước lễ cưới.
Nước mắt cũng trào ra từ hốc
mắt của Dorje, ngấn lệ nhòe nhoẹt khắp khuôn mặt lem luốc của nó. “Vì
sao… chị ấy có nói, là vì chuyện gì…”
Cô gái dùng tay che gương
mặt xinh đẹp giống như Dawa Dolma, nước mắt từ kẽ ngón tay nhỏ xuống.
Đến nay chị cũng không nghĩ thông suốt là vì sao, em gái chỉ kể với chị
nàng đã yêu một chàng trai, một chàng trai xa lạ tình cờ gặp gỡ trong tà
dương của phố Barkhor.
Dorje về đến cung Potala bị Thiết Bổng
Lạt Ma trách phạt nghiêm khắc, sau một trận đòn đau nó mới biết Phật
sống đã bị đưa đến tu viện Drepung ngoài thành Lhasa. Lời nói dối và vu
tội ác ý đã giống như nước triều bao trùm vị Phật sống trẻ tuổi, ở tu
viện càng thâm nghiêm đó, chờ đợi Ngài sẽ là giam cầm và khuyên nhủ
thuyết phục lâu dài. Nhóc Dorje nén nhịn vết thương đau nhức khắp người
đi gấp đến tu viện Drepung, nhưng khi nó đuổi đến, Phật sống đã bị đưa
đi Thanh Hải xa xôi.
Dưới sự chiếu cố của Bồ Tát, nhóc Dorje
một thân một mình đã đi đến bên hồ Thanh Hải một cách thần kỳ, gặp được
Phật sống càng có vẻ xanh gầy tuấn dật. Nghe hết chuyện Dorje kể, vị Lạt
Ma trẻ tuổi đứng bên hồ vẫn lặng lẽ nhìn về nơi xa, đôi mắt sâu thẳm
khép hờ, môi mím càng chặt. Ở phương hướng đôi mắt Ngài hướng đến, ngoài
trăm ngàn dặm sừng sững thành Lhasa uy nghiêm, ở đó từng có một đoạn
ánh dương, chiếu rọi hai người cách thế trùng phùng. Ngài gật gật đầu,
thấp giọng nói: “Ta biết rồi.”
Dorje quỳ phục dưới đất, trên
gương mặt non nớt đầm đìa nước mắt, nó không hiểu vì sao ngay cả mình
cũng đang thương khóc, mà Phật sống trước mặt lại không động lòng đau
xót, rõ ràng Ngài đã vì người con gái ấy làm nhiều việc như thế, hy sinh
nhiều như thế, nhưng sau khi nghe được tin nàng chết, vì sao Ngài đến
biểu cảm trên mặt cũng không thoáng thay đổi, càng không rơi một giọt
nước mắt! Giữa Phật sống và Dawa Dolma rốt cuộc là nhân quả thế nào?
Hai chân Tsangyang Gyatso đứng nguyên chỗ cũ, Dangsang Wangpo lại từng
bước từng bước đi đến bên hồ Thanh Hải thần thánh. Quay đầu, Ngài nhìn
nhục thân lặng lẽ bất động dưới ánh nắng ấy, ngồi xổm xuống, dùng tay
vốc lên một vốc nước hồ băng lạnh.
Nước hồ êm đềm như
gương, trên mặt hồ soi bóng núi tuyết nơi xa và mây trắng trên trời.
Giữa mây trắng có hai con chim ưng bay cao lướt qua. Giống như thuở nhỏ
ngẩng đầu ngắm nhìn bầu trời, trên mặt Dangsang Wangpo nở nụ cười. Hai
con chim ưng ấy là hóa thân của Bồ Tát Không Hành Mẫu, chúng từ cõi trời
trên chín tầng mây bay xuống trước mặt Ngài, chúng sẽ cùng Ngài bay về
núi Nala xa xôi.
Chính sử “Thánh Tổ Thực Lục” viết bằng tiếng
Hán: “Năm Khang Hy thứ 45, Viện xử lý sự vụ ngoại phiên viết, Lạt Ma
đóng ở Tây Ninh báo rằng, Đạt Lai Lạt Ma giả do Lhazang Khan giải đến,
đi tới ngoài cửa Tây Ninh bị bệnh qua đời.”
HẾT
(Dạ Dao)
No comments:
Post a Comment